Bản kháng cáo chi tiết về vụ án xuyên qua 2 thế kỷ, căn cứ nội dung bản án tôi đã viết 50 trang kháng cáo trực tiếp từng nội dung của bản án. Để tập trung những ý chính chủ yếu là chỉ ra vi phạm thủ tục tố tụng của tòa án Nhân Dân tỉnh Thanh Hóa (tòa sơ thẩm) để Tòa phúc thẩm có căn cứ hủy án sơ thẩm để xét xử lại tôi đã rút bản trình bày nội dung kháng cáo còn 21 trang.
Khởi kiện gửi tòa án tỉnh ngày 28/12/2016; ngày 11/5/2017 thụ lý; xử sơ thẩm ngày 12/9/2017; xử phúc thẩm ngày 24/5/2018, nhưng đến nay Tòa án phúc thẩm vẫn chưa giao bản án cho tôi, mặc dù ngay 16/7/2018, tôi đến Tòa án cấp cao tại Hà nội xin sao chụp nhưng tòa án vẫn không cho và viết giấy hẹn. Sau đây là nội dung chi tiết bản án và lời kháng cáo (https://www.facebook.com/LeMinhVuThanhHoa).
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày
22 tháng 5 năm 2018
ĐƠN
BỔ SUNG CHI TIẾT THEO ĐƠN TRÌNH BÀY 28/3/2018
Về việc kháng
cáo toàn bộ bản án số 49/2017/HC-ST
ngày 12/9/2017
của Tòa án Nhân Dân tỉnh Thanh Hóa.
Kính gửi: Hội Đồng Xét Xử, Tòa Phúc Thẩm, Tòa Án
Cấp Cao Tại Hà Nội
Đại Diện Viện Kiểm Sát Cấp Cao
Tại Hà Nội
Tên tôi là Lê Minh Vũ, sinh năm
1968. Là đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn Huy sinh năm 1925, là người khởi
kiện vụ án hành chính đối với Quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016
của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia và Hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải xác
lập ngày 10/5/2016.
Địa chỉ: Thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Điện thoại số: 0913.128.167; Email: vutan326798@gmail.com.
NỘI DUNG CHI TIẾT
KHÁNG CÁO TÒA BỘ BẢN ÁN
HĐXX tổng tóm tắt: "Theo đơn khởi kiện ngày
10/4/2017; đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 01/7/2017".
Nguyên
đơn giải trình chi tiết 1
- Căn cứ nhật ấn Bưu điện, Biên bản
giao nhận tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với tóm tắt của Hội đồng xét xử (HĐXX)
thì các đơn còn tồn tại giá trị
pháp lý trong hồ sơ vụ án không được HĐXX xem xét, không bác bỏ, không trả
lại đơn gồm:
+ Đơn khởi kiện quyết định mang tên
Công ty Giáo dục Vũ Tấn, đơn đề ngày
28/12/2016, nhật ấn bưu điện ngày 2/1/2017 (có trong hồ sơ Phúc thẩm);
+ Đơn khởi kiện quyết định mang
tên người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Minh Vũ, đơn đề
ngày 2/3/2017 nộp ngày 2/3/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong
hồ sơ Phúc thẩm).
+ Đơn khởi kiện vụ án
hành chính mang tên người khởi kiện là ông Lê Văn Huy và người nhận ủy quyền đơn đề ngày 12/4/2017 nộp ngày
12/4/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong hồ sơ Phúc thẩm);
+ Đơn bổ sung thêm yêu cầu
khởi kiện đơn đề ngày 16/8/2017,
giao nộp ngày 25/8/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong hồ sơ Phúc
thẩm);
+ Đơn bổ sung yêu cầu khởi
kiện đơn đề ngày 12/9/2017,
giao nộp ngày 12/9/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong hồ sơ Phúc thẩm);
- Không xem xét đối tượng khởi kiện vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải
xác lập tại Biên bản làm việc ngày 10/5/2016.
- Bút lục xét xử sơ thẩm thiếu 12 bút lục so với số bút lục
chuyển sang Viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa.
+ Thời gian từ nhận đơn đến thụ
lý vụ án kéo dài 4 tháng 9 ngày (2/1/2017 đến 11/5/2017) mà không có lý do
chính đáng. Thời gian này Thẩm phán hướng
dẫn sửa đơn bằng miệng, định hướng có lợi cho người bị kiện, từ nguồn chứng cứ
trở thành đối tượng khởi kiện bị hủy là vi phạm nghiêm trọng Luật tố tụng hành
chính (LTTHC) quy định tại Điều 121. Nhận và xem xét đơn khởi kiện;
Điều 122. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; Điều 125.
Thụ lý vụ án.
- HĐXX hành xử không công bằng, không minh bạch:
+ Ngày 12/9/2017 trước lúc Hội đồng xét xử
làm việc Thẩm phán có nhận đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện và chứng cứ. Nhưng không
đưa chứng cứ và yêu cầu ra xem xét tại phiên tòa và cũng không biên nhận, theo mẫu giấy màu vàng ghim trên tập chứng cứ và yêu cầu bổ sung mà Tòa
án trả lại cho tôi ngày 13/9/2017 có ghi: "Ông Lê Minh Vũ nộp tại phiên
tòa sơ thẩm 12/9/2017" nên phiên xét xử chỉ mang tích hình thức.
- Tôi không đồng ý việc xét xử vắng mặt người
bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Chủ tọa phiên
tòa không lấy ý kiến HĐXX mà tự quyết định xét xử nên chứng cứ mâu thuẫn với nhau
không được làm rõ tại tòa. Tôi yêu cầu HĐXX công khai hồ sơ UBND xã Tĩnh Hải
lấy đất nông nghiệp năm 1993;1994 của gia đình ông Huy và hồ sơ giao đất cho 8
hộ trùng trên đất của gia đình tôi. thì Chủ tọa phiên tòa trả lời: "Anh
đang khởi kiện UBND xã Tĩnh Hải
thu và giao đất trái pháp luật thì làm gì có hồ sơ để công khai". Căn cứ Luật đất
đai 1987 đối với đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm trước 15/10/1993; Luật đất đai
1993 đối với đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm sau ngày 15/10/1993 và Nghị định 64,
năm 1993. Việc chủ tọa thừa nhận sai phạm của UBND huyện Tĩnh
Gia và 8 hộ không có hồ sơ giao nhận đất, nên việc tôi yêu cầu hủy quyết định bồi
thường hỗ trợ số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 là có căn cứ:
+ Đối tượng bồi thường hỗ trợ
không có các loại giấy tờ về đất, được Chủ tọa phiên tòa khẳng định trước HĐXX
+ Đối tượng được bồi thường hỗ
trợ không sử dụng đất, căn cứ tại bút lục số 109; 119 là QĐGQKN của Chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa. Chứng cứ có số thứ tự 34 đơn khởi kiện
ngày 10/4/2017 là bản tin phóng sự truyền hình của Báo Diễn đàn Doanh Nghiệp đầu
năm 2016, chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải khẳng định đất bỏ hoang hóa không ai chịu
đầu tư sản xuất. Là căn cứ về việc UBND huyện Tĩnh Gia làm hồ sơ giả bồi thường
hỗ trợ cho người không sử dụng đất.
Video này do Báo Diễn đàn Doanh nghiệp thực hiện tháng 3/2016 tại hiện trường mà chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia ban hành quyết định 8745 trái pháp luật
HĐXX tổng
tóm tắt: "Tuyên bố quyết định số
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tĩnh Gia (sau
đây viết tắt là UBND) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng dự án: Đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn là quyết định trái pháp
luật;"
Nguyên đơn giải
trình chi tiết 2. Trong hồ sơ vụ án có Văn bản của Chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa; Tiếp công dân Trung Ương Đảng; Văn phòng Chính phủ; các Bộ ngành và
Báo VietNamNet gửi nhiều Công văn, Hướng dẫn, Thư chuyển đơn yêu cầu nhưng Chủ
tịch UBND huyện Tĩnh Gia không giải quyết khiếu nại. Năm 2010 Chủ tịch tỉnh Thanh Hóa chỉ đạo Thanh tra tỉnh Thanh Hóa tại công văn 3532 tham mưu UBND tỉnh giải quyết vụ việc, sau đó UBND tỉnh không ý kiến phản hồi đơn. Năm 2013 gia đình tôi cũng
đã khởi kiện chủ tich UBND tỉnh đến Tòa án Nhân tỉnh Thanh Hóa, bị tòa tỉnh trả
lại đơn khởi kiện. Tôi kháng cáo tới Tòa án Nhân dân Tối cao. Ngày 12/9/2013 Tòa án Nhân đân Tối cao gửi
Công văn số 589/PC-BTK tới Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa (TAND-TTH). Về
việc chuyển đơn thư khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhiều lần
tôi đến Tòa án tỉnh kiến nghị nhưng đơn khởi kiện ngày 11/8/2013 Chánh án tỉnh
Thanh Hóa vẫn không giải quyết. Theo nghị quyết của UBND xã Tĩnh Hải chỉ đạo tại văn bản ngày 31/5/2016 thì đất của gia đình tôi được kiểm kê bồi thường, nhưng sau đó chủ tịch UBND xã không thực hiện đã làm đường chồng trên đất của gia đình tôi. Khiếu kiện không giải quyết nên việc UBND huyện
Tĩnh Gia Quyết định 8745/QĐ-UBND, ban hành để làm đường trùng trên đất của gia
đình tôi là làm chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp, nên việc yêu cầu hủy Quyết định 8745/QĐ-UBND trái pháp luật là có căn cứ.
HĐXX tổng
tóm tắt: "Tuyên bố quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của
Phó chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia về việc giải quyết khiếu nại của ông Lê Văn
Huy, thôn Vinh Quang, xã Tĩnh Hải là quyết định trái pháp luật;"
Nguyên đơn giải trình chi tiết 3. Căn cứ đơn khởi
kiện đầu tiên qua đường Bưu Điện, ngày 28/12/2016, tôi không khởi kiện Quyết định 01/QĐ-TTTG của
Thanh Tra huyện Tĩnh Gia, ngày 26/9/1996, mà đưa quyết định
01/QĐ-TTTG vào với tư cách là nguồn chứng cứ khiếu kiện đòi tài sản, là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt và hủy
hoại. Trong quá trình Tòa án hướng dẫn sửa đơn có nói với tôi rằng: Quyết định
01 của Thanh Tra huyện làm sai thì để lại hay hủy phải nêu rõ, đó là lý do đơn
khởi kiện ngày 10/4/2017 tôi yêu cầu Tòa án bảo lưu một phần kết quả xác minh
đúng thẩm quyền của Thanh tra và yêu cầu hủy phần quyết định giải quyết khiếu nại
không đúng thẩm quyền của Thanh tra huyện Tĩnh Gia
HĐXX tổng
tóm tắt: "Yêu cầu xem xét hành vi thu hồi đất trái pháp luật
của UBND xã Tĩnh hải, huyện Tĩnh Gia đối với gia đình ông Lê Văn Huy diễn ra từ
năm 1993 đến năm 1995 tại 08 vị trí đất gồm: 02 ha tại khu vực Đê Hoàng Hóa; 01
ha tại khu vực Đê Làng; 67 thước đất trong sổ thuế nông nghiệp tại Đê làng; 06
sào đất đồng tôm ở Đê Làng; 420 m2 đất vườn tại thôn Liên Vinh; 225
m2 đất ở tại khu vực đê Làng và đê Châm; 600 m2 đất đồi ở
khu vực Đê Làng và Đê Châm; 09 thước đất phía tây Đường 7".
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 4.
- Theo nội dung đơn khiếu kiện tôi đòi đất
mà UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt, tuyệt
đối tôi không khởi kiện vụ án hành chính về hành vi thu hồi đất trái pháp luật
của UBND xã Tĩnh Hải nên HĐXX đã nhận định sai về đối tượng khởi kiện.
- Việc HĐXX thừa nhận tôi đòi
đất bị chiếm đoạt ở 8 vị trí khác nhau, mục đích sử dụng đất khác nhau, thời
điểm chiếm đoạt khác nhau là áp dụng Luật TTHC 2015 tại Điều 34 khoản 1 quy
định: về việc giải quyết vụ án theo
thủ tục chung, sau khi thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp
để giải quyết. Việc HĐXX biến
tất cả yêu cầu đòi tài sản thành đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, để áp
dụng thời hiệu chấm dứt quyền đòi tài sản là không đúng.
HĐXX tổng tóm tắt: "... sơ đồ
hiện trạng Đê Làng, Đê Hoằng Hóa, Đê Mới trước năm 1993 do ông Lê Minh Vũ tự
vẽ; lời khai người làm chứng (ông Lê Quang Hồng; bà Lê Thị Ninh; ông Lê Hữu
Bút; ông Lê Văn Quang) và các văn bản hướng dẫn đơn của cơ quan có thẩm quyền
đối với ông Lê Văn Huy, ông Lê Minh Vũ từ năm 2008 đến nay."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 5. HĐXX khẳng định,
sơ đồ hiện trạng Đê Làng, Đê Hoằng Hóa, Đê Mới tôi tự vẽ là không đúng. Bởi vì
sơ đồ hiện trạng Đê Làng, Đê Hoằng Hóa, Đê Mới trước năm 1993 giao nộp trong hồ
sơ vụ án do các hộ làm ruộng liền kề lập
và cùng nhau ký xác nhận mốc giới với ruộng của gia đình tôi gồm: ông
Quang; ông Bút; ông Hồng; bà Ninh; bà Thiết, ". Cùng với bản tự khai của
các hộ làm ruộng liền kề, thể hiện rất rõ về vị trí hiện trạng đất của gia đình
tôi tại thời điểm đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt, chứng cứ này có trong hồ
sơ vụ án.
HĐXX tổng tóm tắt: "Tại
bản tự khai ngày 25/5/2017 và quá trình giải quyết tại Tòa án, người đại diện
theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia trình bày:
Năm 1996 nhận
được đơn khiếu nại của ông Lê Vắn Huy ở thôn Vinh Quang, xã Tĩnh Hải, huyện
Tĩnh Gia, Thanh tra huyện Tĩnh Gia đã ban hành quyết định số 01/QĐ/TTTG ngày
26/9/1996 để gải quyết khiếu nại là đúng thẩm quyền. Căn cứ Điều 11, Mục 2 Pháp
lệnh số 53-LCT/HDDNN8 của Hội đồng Bộ trưởng về khiếu nại tố cáo của công dân,
Quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên việc ông Lê Văn huy khởi kiện yêu cầu
hủy QĐGQKN của Thanh tra huyện Tĩnh Gia
là không được chấp nhận."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 6. Người khởi kiện
và người bị kiện đối lập quan điểm trong vụ án HĐXX không có ý kiến gì, đó là
việc UBND huyện Tĩnh Gia căn cứ theo Điều 11, Mục 2 Pháp lệnh số 53-LCT/HDDNN8
thì Thanh tra huyện chỉ được giải quyết khiếu nại khi: Chủ tịch UBND xã đã giải
quyết mà đương sự còn khiếu nại. Thực tế không có chứng cứ nào chứng minh UBND
xã giải quyết khiếu nại mà gia đình tôi không đồng ý nên UBND huyện Tĩnh Gia áp
dụng Điều 11 Mục 2 là không đúng. Theo Mục 2, Điều 10, khoản 2 Pháp lệnh số
53-LCT/HDDNN8 quy định: Khiếu nại việc làm của thủ trưởng cơ quan nào thì thủ
trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết; Mặt khác Luật đất đai 1993 ngày 14/7/1993
tại điểm a khoản 2 Điều 38 quy định về việc giải quyết tranh chấp đất giữa hộ
gia đình với tổ chức trong trường hợp người sử dụng đất không có giấy chứng
nhận thì chủ tịch UBND huyện giải quyết. Như vậy căn cứ Pháp lệnh khiếu nại
1991; Luật đất đai 1993 thì việc chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất của gia đình tôi, Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia phải giải quyết. Do trong đối thoại và trong xét xử sơ thẩm vắng
mặt người bị kiện nên nội dung này không được đối chất làm rõ trước HĐXX.
HĐXX tổng tóm tắt: "Về nguồn gốc đất của các hộ dân được phê duyệt
bồi thường theo quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch UBND
huyện Tĩnh Gia để thực hiện dự án xây dựng đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi
Sơn tại xã Tĩnh Hải là đất được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng
thủy sản theo dự án 327 của Chính phủ."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 7. Việc UBND huyện
Tĩnh Gia khẳng định: UBND xã Tĩnh Hải giao đất cho các hộ nuôi trồng thủy sản
theo dự án 237, là tự mâu thuẫn với tài liệu mà các bên đương sự giao nộp trong
hồ sơ vụ án, đó là sổ thuế nông nghiệp đóng thuế đến năm 1992 chứng minh
đất này không phải đất hoang hóa để thực hiện dự án 327. Tại các bút lục: (BL74;
286; 284) ông Hùng (trong 8 hộ) tự khai nhận là ông Hùng thầu đất và giấy
UBND xã giao đất thầu cho ông Hùng có thu tiền nhưng quyết định 8745 lại bồi
thường đất dự án 327 cho ông Hùng thể hiện rõ về việc UBND huyện Tĩnh Gia
làm hồ sơ giả bồi thường; (BL281; 282) UBND xã Tĩnh Hải xác nhận cho ông
Lê Văn Bụt chuyển nhượng đất thầu (xã thu tiền hàng năm, thầu có thời hạn) cho
ông Lê Năng Nguyễn là vi phạm; (BL120) UBND tỉnh Thanh Hóa báo cáo Chính
phủ về việc năm 2005 UBND xã Tĩnh Hải thu hồi đất của 8 hộ gia đình do không
đạt mục tiêu thực hiện dự án 327; Văn bản của UBND tỉnh khẳng định năm 2006
UBND xã kêu gọi trên loa phóng thanh của xã cho đấu thầu công khai trên đất của
8 hộ mà xã đã thu hồi, người trúng thầu năm 2006 là ông Du và ông Vững khẳng
định 8 hộ được bồi thường là do làm hồ sơ giả. (BL119) Quyết định
565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 của Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa khẳng định năm 2008 khu đất này UBND xã Tĩnh Hải xác định
là đất công ích 5% lấy tiền gửi ngân hàng, nhưng bị UBND tỉnh bác bỏ, do UBND huyện không xác định được chủ sử
dụng đất nên UBND tỉnh yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải nộp tiền bồi thường về đất vào
ngân sách của UBND tỉnh. Quyết định 565/QĐ-UBND của tỉnh cũng tái khẳng
định năm 2008 Đê Đạo (Đê Hoàng Hóa) người sử dụng là ông Du; ông Vững, Đê Làng
có 27 hộ sử dụng. 8 hộ nhận tiền hỗ trợ trùng trên đất gia đình tôi mà tòa án
đưa vào người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trong vụ án mà QĐ-GQKN đã khẳng định việc các hộ đòi đất dự án 327 là
không có cơ sở. Từ năm 2005, 8 hộ đã
bàn giao đất cho xã, xã cho ông Du và ông Vững thầu khai thác tôm cá tự nhiên
(thầu giữ cống). Căn cứ các quyết định GQKN của UBND huyện và tỉnh tại các
năm 2010 - 2012, Văn bản của Thanh tra tỉnh và UBND tỉnh Báo cáo Chính phủ. Đối
chiếu với quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia thì rõ ràng Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia không xác định chủ sử dụng đất
trong thời gian dài, buông lỏng quản
lý, hủy hoại đất, làm giả hồ sơ về vật kiến trúc, vật nuôi để hỗ trợ cho 8 hộ nhận
tiền, việc nhận tiền có chia nhau tại UBND xã Tĩnh Hải, các sai phạm đó
không được đối chất làm rõ tại tòa (BL114; 115) ngày 10/8/2010 Thanh
tra tỉnh báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh về việc 8 hộ nêu trên thuộc "nhóm
thứ 3", đã chuyển nhượng đất hoặc bỏ đất hoang không làm nên năm 2006 UBND
xã Tĩnh Hải thu lại giao thầu cho ông Du, ông Vững.
Nhìn chung từ (BL104 đến BL120)
và nhiều quyết định năm 2010, năm 2012 của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia và
chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa giải quyết khiếu nại về việc 8 hộ đòi bồi thường
đất dự án 327, các Quyết định đều khẳng định 8 hộ yêu cầu bồi thường đất dự án
327 là không có cơ sở. Trùng trên đất gia đình tôi đang khiếu nại, thì các
quyết định có số bút lục kể trên, UBND huyện và UBND tỉnh đều nhắc đến việc 8
hộ bỏ đất hoang, năm 2006 UBND xã đã thu lại đất giao thầu cho ông Du và ông
Vững. Mặt khác theo đơn ngày 10/4/2017 tại chứng cứ có số thứ tự 34 trong đơn
khởi kiện là phóng sự truyền hình của Báo Diễn đàn Doanh Nghiệp,
năm 2016 bà Nguyễn Thị Nga Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải phát biểu trực tiếp, khẳng
định vị trí đất gia đình tôi trùng với 8 hộ, là đất bỏ hoang nhiều năm không ai
chịu tôn tạo, đầu tư là hoàn toàn phù hợp với các quyết định của Chủ tịch UBND
huyện Tĩnh Gia năm 2010, quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa năm 2012.
Đối chiếu với các bút lục: (Từ BL 123 đến BL 171 và từ 215 đến 232) về
việc Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia lập dự toán ban hành quyết định bồi thường hỗ
trợ cho các hộ, thì rõ ràng Quyết định
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia là kết quả của
việc làm hồ sơ giả về công trình kiến trúc; khối lượng đào đắp; năng
suất tôm, cua, cá cho các hộ nhận tiền hỗ trợ và bồi thường trái pháp luật,
trong khi gia đình tôi khiếu kiện thì không giải quyết. Trước quyết định
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016, trên khu vực 8 hộ lấy tiền Quyết định số
1173/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia cũng đã bồi thường QSD đất cho
UBND xã Tĩnh Hải, khối lượng đào đắp bồi thường cho ông Vững và ông Du (8 hộ Sắt;
Sen; Hùng; Nhung; Nguyện; Nguyễn; Huấn; Trung không được bồi thường hỗ trợ vì
bỏ đất hoang bị UBND xã đã thu hồi năm 2006). Các hộ tái chiếm là lợi dụng
quyết định 1173 về việc UBND huyện Tĩnh Gia làm hồ sơ giả bồi thường đất cho
UBND xã Tĩnh Hải và cán bộ tư pháp Vũ Văn Dũng.
HĐXX tổng tóm tắt: "Khu vực đất ông Lê Văn Huy khiếu kiện theo hồ
sơ 299 năm 1987, tại tờ bản đồ số 01 và tờ bản đồ số 02 gồm thửa 01 và thửa 189
là diện tích đo bao nguyên thửa. Tổng diện tích 75.931 m2, loại đất
hoang, sổ mục kê ghi UBND xã. Theo hồ sơ địa chính năm 1998, tại tờ bản đồ số
12 gồm 15 thửa và tờ bản đồ số 7 là 08 thửa là đất nuôi tôm, sổ mục kê ghi UBND
xã. Theo trích lục chỉnh lý số 34/TLB do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
lập ngày 20/6/2016: Thửa 11 và thửa 25 ghi tên Lê Văn Sắt, thửa 72 chi tên Lê
Hữu Khuyên, thửa 31A và thửa 01 ghi tên Lê Năng Sen, thửa 32B, thửa 32F và thửa
15 ghi Lê Văn Hùng, thửa 10 ghi tên Lê Thị Nhung, thửa 21 ghi tên Lê Văn Nguyện,
thửa 32H và thửa 23 ghi tên Lê Năng Nguyễn, thửa 27 và thửa 31 ghi tên Lê Văn
Huấn, thửa 32A ghi tên Lê Ngọc Trung."
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 8 Nhận định của HĐXX đã thể hiện rõ về việc UBND huyện Tĩnh Gia
lập hồ sơ giả để bồi thường hỗ trợ tại Quyết định 8745/QĐ-UBND bởi các mâu
thuẫn:
+ Mục kê và bản đồ 299 năm
1987 là đo bao, là đất hoang đồng bằng, chủ sử dụng đất là UBND xã nhưng tại BL105
(QĐ huyện 20/1/2010) lời khai của cán bộ địa chính thì đất đê Đạo, đê làng, đê
Hoàng Hóa là đất 2 lúa. Người sử dụng đất là HTX Liên Vinh. Nhưng sổ thuế nông
nghiệp lại tách thửa cho ông Huy, và là đất canh tác có hiệu quả.
+ Mục kê
và bản đồ năm 1998 đất đê Đạo và đất đê Làng đã có tách thửa, là đất nuôi tôm,
người sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải là trái pháp luật
Tại BL109 và 119 là các quyết định GQKN đều
khẳng định 8 hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở nhưng ngày 20/6/2016 UBND
huyện Tĩnh Gia đã làm giả hồ sơ chỉnh lý tách thửa không có căn cứ, sai phạm
này không được đối chất làm rõ tại tòa.
Căn cứ
tình hình sử dụng đất nêu trên (giải trình chi tiết 8), Quyết định Chủ
tịch UBND huyện Tĩnh Gia giải quyết khiếu nại ngày 20/1/2010 (BL 105),
Quyết định 565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 (BL117) và Chủ tịch UBND xã Tĩnh
Hải Nguyễn Thị Nga phát biểu trên: Phóng sự truyền hình Báo Diễn đàn Doanh
nghiệp (chứng cứ có số thứ tự 34 đơn khởi kiện ngày 10/4/2017). rõ ràng trích
lục chỉnh lý số 34/TLB do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất lập ngày
20/6/2016 lập không có căn cứ (làm giả hồ sơ). UBND huyện Tĩnh Gia căn cứ hồ sơ
làm giả này, tiếp tục làm giả hiện trạng sử dụng đất về vật kiến trúc, nhà, hoa
màu, sản lượng cá tôm để bồi thường hỗ trợ trên đất hoang nên: Ngoài
việc làm chấm dứt quyền sử dụng đất
của gia đình tôi thì Quyết
định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 còn vi phạm về việc làm giả chủ sử dụng đất
qua các thời kỳ, làm giả hồ sơ bồi thường hỗ trợ trên đất hoang, làm giả sản lượng tôm cá (BL135). Làm giả hồ
sơ bồi thường về đất giữa BL2 không bồi thường về đất cho 8 hộ trùng nhưng
BL153 có bồi thường về đất cho 8 hộ trùng trên đất gia đình tôi.
HĐXX tổng tóm tắt: " một số hộ
nhận đất nuôi trồng thủy sản theo dự án 327 tại khu vực Đê Đạo, Đê làng có
khiếu nại đã được Chủ tịch UBND tỉnh GQKN tại Quyết định số 565/QĐ-UBND ngày
01/3/2012 trong đó đã nêu rõ nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của các hộ gia
đình."
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 9. Nhận định này mâu thuẫn nghiêm trọng với nội dung quyết định số
565, QĐ-UBND ngày 01/3/2012 tại BL119. Bản đồ 1998 và sổ mục kê ghi, đất
nuôi tôm, chủ sử dụng đất là UBND xã
Tĩnh Hải là hoàn toàn phù hợp với việc gia đình tôi khiếu kiện về việc UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất của gia đình
tôi. BL109 Ngày 20/1/2010
QĐGQKN của Chủ tịch UBND huyện khẳng định là đất thầu, hoàn toàn phù hợp với đơn
giao thầu trong hồ sơ vụ án.
Mặt khác,
căn cứ Điều 1, Quyết định 327 ngày 15/9/1992 thực hiện trên đất hoang, đối
chiếu với: Sổ thuế nông nghiệp năm 1992. Giấy giao thầu cho ông Vũ, ông Hùng,
ông Nguyễn. BL119 QĐ 565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 xác minh với UBND xã Tĩnh Hải thì: đê Làng đê Đạo là đất thầu
của xã do vậy UBND xã Tĩnh Hải xác định nguồn gốc đất xác định là đất 5% của
xã, xã lấy tiền đất, ông Du ông Vững lấy tiền hoa lợi không có tên 8 hộ. Xác minh theo quyết định chủ tịch huyện Tĩnh
Gia tại bút lục 109 QĐGQKN cho các hộ ngày 20/1/2010 đều quy định: Đê
Đạo trước năm 1993 là đất 2 lúa; không thực hiện được dự án 327 nên xã đã giao
thầu thời hạn 10 năm (1993-2003 hợp đồng thầu của ông Đỉnh); năm 1997-2001 các
hộ chuyển nhượng cho người trong xã ngoài huyện; năm 2001-2005 bỏ hoang; năm
2006 có 14 đơn tham gia đấu thầu trong đó có 11 đơn có 8 hộ thầu giai đoạn
1993-2003 tham gia, tái thầu khai thác tôm cá tự nhiên (thầu giữ cống), ông Du
trúng thầu 60 triệu đồng mỗi năm, sau đó UBND xã thu lại 1 phần của ông Du cho
ông Vững thầu. Các hộ (8 hộ) khiếu nại đòi đất nhưng không có loại giấy tờ gì
về đất. Kết quả thẩm tra xác minh của
Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tại BL118, xác định ông Lê
Ngọc Dầu phó ban chỉ đạo dự án 327, tại BL109 ông Dầu khẳng định dự án
327 không thực hiện được và nêu ra căn cứ đê Đạo thầu 10 năm (theo hợp đồng của
ông Đỉnh), do không đạt mục tiêu di dãn dân theo dự án 327. Việc UBND huyện
Tĩnh Gia làm giả hồ sơ bồi thường hỗ trợ trên đất của gia đình tôi cho 8 hộ là
có dấu hiệu cố ý làm trái quy định; lợi dụng chức vụ quyền hạn; lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Với các căn cứ, chứng cứ giao nộp trong hồ sơ vụ ánvề đất thầu
thì rõ ràng quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia bồi thường hỗ trợ là không có căn cứ, mà là làm hồ sơ giả để nhận tiền bồi thường hỗ trợ
lấy tiền chia nhau tại UBND xã Tĩnh Hải. Vi phạm này không được đối
chất làm rõ.
Theo
quyết định 8745 không bồi thường về đất cho 8 hộ nhưng phương án bồi thường
tại BL153 có bồi thường về đất
cho 8 hộ, HĐXX không đánh giá chứng cứ nên tình tiết phạm tội quan trọng này
không được làm rõ.
- Về đất Tây
Đường 7 của gia đình tôi, UBND xã Tĩnh Hải không giao nộp mục kê bản đồ 299 năm
1987. BL72, 92 và 102 bản đồ 1998 thể hiện đo bao nguyên thửa đất canh
tác, không có sổ mục kê. BL84 bản
đồ 2011 đất canh tác đường 7 đã bị tách thành nhiều thửa đất ở, không có sổ mục
kê. Riêng thửa đất của gia đình tôi tranh chấp quyết liệt với UBND xã nên đo
bao, chủ sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải và thôn Liên Vinh là trái pháp luật.
Năm 2017 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất UBND huyện Tĩnh Gia cung cấp bản
đồ và mục kê thì thửa đất của gia đình tôi đã bị tách thành 2 thửa, nhưng không
ghi tên chủ sử dụng đất trong khi Sổ thuế quy định về đất quy chủ cho nông hộ
thì ghi tên ông Lê Văn Huy.
- Đất Cồn Đồi BL315 bản đồ 299 năm 1987 UBND xã Tĩnh Hải
giao nộp (không có sổ mục kê) thể hiện rõ về hình dạng (chữ L) thửa đất của gia
đình tôi như mô tả trong đơn khiếu kiện, Đồi
thửa 42 diện tích 430m2, thửa Cồn và diện tích trên bản đồ mờ ghi
không rõ. Thửa giáp gianh với đất bà Hẹ phía nam đo bao do không xác
định chủ sử dụng đất. BL 326 bản đồ năm 1998 đất Cồn, Đồi đối chiếu với
sơ đồ mà bà hẹ và ông Huệ ký mốc giới giáp gianh đất của bà Hẹ và ông Huệ thì đất
Cồn, Đồi là thửa 214 và thửa 215. BL329 bản đồ UBND xã Tĩnh Hải làm giả
năm 2016, căn cứ Biên bản ngày 10/5/2016 thì đất Cồn bị lấn chiếm, đất Đồi chỉ
còn 136,9 m2. thửa giáp gianh phía nam đo bao năm 1998 bị chia thành
nhiều thửa cho nhiều người không có đất.
- Đất đê Làng, đất Cồn Đồi,
đất Tây đường 7 Chon sâu 207m2. Chon gàng 123 m2. Cây gạo
200m2. Mục đồng 276 m2. Đê Châm 1500m2. Đê ba
mẫu 300m2. Tây đường bảy 300 m2 Bản đồ 299 năm 1987 ghi
người sử dụng đất là HTX thôn Liên
Vinh. Trong khi căn cứ pháp lý là sổ thuế do Bộ tài chính phát hành quy
định đất quy chủ cho nông hộ do UBND xã Tĩnh Hải lập thì lại ghi tên ông Huy, đất
khiếu kiện có các hộ liền kề lập sơ đồ hiện trạng ký giáp gianh với ông Huy
trong hồ sơ vụ án. Do vậy HĐXX khẳng định tôi không xác định được vị trí, ranh
giới các thửa đất tranh chấp là không đúng.
Năm 1998 bản đồ và sổ mục kê
ghi: đất nuôi tôm, chủ sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải là trái pháp luật. BL109
Ngày 20/1/2010 QĐGQKN của UBND huyện khẳng định là đất thầu là phù hợp với
đơn giao thầu trong hồ sơ vụ án. BL117-119 ngày 1/3/2012 QĐGQKN của UBND
tỉnh cũng không xác định được chủ sử dụng đất. Đầu năm 2016 chủ tịch UBND xã
Tĩnh Hải phát biểu công khai trên thông tin đại chúng (Báo diễn đàn Doanh
nghiệp) là đất bỏ hoang không ai chịu đầu tư cải tạo.
Căn cứ Điều 1, Quyết định 327
ngày 15/9/1992, đối chiếu với sổ thuế nông nghiệp mà gia đình tôi hoàn thành
nghĩa vụ thuế nông nghiệp đến cuối năm 1992, thì việc UBND huyện Tĩnh Gia khẳng
định giao đất cho 8 hộ theo dự án 327 là không có cơ sở, vì đất dự án 327 phải
thực hiện trên đất hoang. Đối chiếu sổ thuế nông nghiệp nộp thuế đến cuối năm
1992 là hoàn toàn phù hợp với hồ sơ giao thầu cho ông Vũ; ông Hùng; ông Nguyễn
có trong hồ sơ vụ án. Với đối chiếu này thì chắc chắn UBND huyện Tĩnh Gia đã
làm giả hồ sơ từ đất thầu, đất bỏ hoang để bồi thường hỗ trợ đất dự án 327 cho
8 hộ theo quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016, của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia.
- Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia
không xác định được quyền sử dụng đất cho chủ sử dụng đất tại vị trí khiếu kiện,
trong khi gia đình tôi khiếu kiện lại không được giải quyết, đó là lý do khi
đường Bắc Nam 2 làm xong mà quyết định 8745 làm giả không bồi thường về đất
nhưng phương án do UBND huyện Tĩnh Gia lập lại có bồi thường về đất.
HĐXX tổng tóm tắt: "Ông Lê Minh Vũ không cung cấp được bất cứ tài
liệu, chứng cứ gì để chứng minh ông Lê Văn Huy có quyền sử dụng các thửa đất
nêu trên, Sổ thuế nông nghiệp do ông Vũ xuất trình không phải là giấy tờ về đất
mà chỉ là sổ thuế nông nghiệp theo khoán 10 trước năm 1993. Sau khi nghị định
64 của Chính phủ về việc giao đất sản xuất lâu dài cho hộ nông dân thì sổ này
không được sử dụng nữa. Do đó việc ông Lê Văn Huy yêu cầu hủy quyết định phê
duyệt bồi thường số 8745 không được chấp nhận."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 10. Sổ thuế nông
nghiệp do Tổng cục thuế, Bộ tài chính phát hành do UBND xã ghi sổ, số sổ trùng
với sổ lưu của xã. Sổ quy định về đất quy chủ cho nông hộ, căn cứ ghi sổ gồm tờ
khai; sổ giao khoán; giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất của nông hộ; mọi thông
tin ghi chép thực hiện theo Pháp lệnh. Do vậy sổ thuế nông nghiệp đủ điều kiện được
thay thế tất cả các loại giấy tờ về đất tại thời điểm sử dụng đất.
Đất của gia đình tôi đủ điều kiện cấp giấy CNQSD đất theo Luật đất đai
1993 và nghị định 64, năm 1993. Năm 1993 - 1994 UBND xã Tĩnh Hải chiếm đất của
gia đình tôi, cuối năm 1994 Chủ tịch huyện cấp giấy CNQSDĐ đợt đầu cho hộ gia
đình. Do UBND xã Tĩnh hải cố ý chiếm đất của gia đình tôi nên UBND xã Tĩnh Hải
tìm cách hủy bỏ hồ sơ về quyền sử dụng đất của gia đình tôi. Do gia đình tôi
tranh chấp đất với UBND xã thì không thể căn cứ hồ sơ một phía mà UBND xã cung
cấp. Để đánh giá khách quan phải căn
cứ sổ thuế nông nghiệp của gia đình tôi mà UBND xã lập và hồ sơ quản lý cấp
huyện và cấp tỉnh để xác minh, bởi UBND xã Tĩnh Hải và gia đình tôi đều
là đương sự vụ tranh chấp. Việc gia đình tôi đưa ra nhân chứng, vật chứng là
các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất mâu thuẫn với tài liệu của UBND xã (huyện
không giao nộp tài liệu quản lý đất đai). Các mâu thuẫn không được đối chất làm
rõ trước HĐXX do vắng mặt người bị kiện và người có nghĩa vụ liên quan là không
đúng. Trước HĐXX tôi đã giải trình về
nhân chứng, vật chứng để chứng minh quyền sử dụng đất. Còn UBND huyên Tĩnh Gia
không có tài liệu giao nộp, mà chỉ dựa vào một số tài liệu trái pháp luật của
thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải để làm căn cứ. Vậy mà HĐXX vẫn bác bỏ yêu cầu hủy
quyết định 8745 là không khách quan.
+ Nhân chứng xác nhận đất cho
gia đình tôi có: ông Quang; ông Bút; ông Hồng; bà Ninh; bà Thiết là những người
làm ruộng liền kề trước năm 1993 với gia đình tôi đã cùng nhau lập sơ đồ ký mốc giới, đông, tây, nam, bắc giáp ranh với gia
đình tôi, cùng với bản các hộ tự khai đã giao nộp trong hồ sơ vụ án.
+ Vật chứng có căn cứ pháp lý
gồm: Sổ thuế nông nghiệp phản ánh toàn bộ diện tích ruộng đất quy chủ
cho nông hộ quản lý sử dụng do Tổng cục thuế, Bộ tài chính phát hành,
vị trí thửa đất, diện tích, mức thuế là do UBND xã Tĩnh Hải lập ghi rõ ràng
trong sổ; Đất khai hoang là 3 héc ta tôi tự khai trong đơn, ngày 28/8/1994 được
Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, ký tên đóng
dấu trên phần tự khai 3 héc ta đất khai hoang các hộ làm ruộng liền kề
có ký xác nhận vị trí, mốc giới rõ ràng giao nộp trong hồ sơ vụ án; Về 3 héc ta
đất khai hoang và 67 thước đất của ông cha để lại, ngày 26/9/1996 Thanh tra huyện Tĩnh Gia xác minh cho gia đình
tôi là có.
Với chứng cứ vừa nêu thì việc
UBND xã Tĩnh Hải không xuất trình được hồ sơ thu hồi đất và hồ sơ giao đất cho
8 hộ là UBND xã Tĩnh Hải vi phạm: Điều
1; khoản 1; khoản 3; Điều 3; khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 13 Nghị định 64 ngày 27/9/1993.
Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 403 Luật
dân sự số 44-L/CTN ngày 28/10/1995 thì Sổ thuế nông nghiệp năm 1992; Đơn xin
thầu đê có kê khai 3 héc ta đất khai hoang của gia đình có xác nhận của Chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải ngày 28/8/1994; Kết luận thanh tra huyện Tĩnh Gia tại Văn
bản số 01/QĐ-TT TG ngày 26/9/1996 thì các loại giấy tờ này là chứng cứ về nguồn
gốc và quyền sử dụng đất của gia đình tôi mà Luật 44-L/CTN quy định, là chứng
cứ không cần phải chứng minh.
Căn cứ Luật Tố tụng hành chính 2015.
Điều 79. Khoản 2 quy định, những tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh đó là: “Một bên đương sự
thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà
bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự kiện, tài liệu,
văn bản đó không phải chứng minh. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng
thì sự thừa nhận hoặc không phản đối của người đại diện được coi là sự thừa
nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện”. Như vậy với các
nhân chứng mặt, vật chứng trình bày tại phiên tòa. UBND huyện Tĩnh Gia không có
tài liệu, lời nói phản tố thì HĐXX phải áp dụng Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định
tại Điều 79 khoản 2 để công nhận chứng cứ hợp pháp
cho gia đình tôi.
HĐXX tổng tóm tắt: "Tại bản tự khai ngày 25/5/2017 và quá trình
giải quyết tại Tòa án, Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia trình bày:
Khu đất Đê Hoàng Hóa và Đê Làng do Hợp tác
xã thôn Liên Vinh quản lý, thực hiện Luật đất đai năm 1993, một số diện tích đã
được giao cho các hộ quản lý, một số diện tích nhiễm mặn Nhà nước có chủ trương
giao đất nuôi trồng thủy sản theo dự án 327 năm 1993."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 11. UBND xã Tĩnh
Hải giao đất cho các hộ theo dự án 327 là không đúng vì trong hồ sơ vụ án các
hộ không có bất cứ loại giấy tờ gì về việc UBND xã Tĩnh Hải giao đất. Mặt khác
tại BL109 và 119 QĐ-GQKN của huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa khẳng định
các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở, nên quyết định 8745 là làm giả.
HĐXX tổng tóm tắt: "Từ trước
đến nay gia đình ông Huy không sử dụng đất, không có giấy tờ gì chứng minh về
quyền sử dụng đất và cũng không nêu được vị trí, ranh giới, kích thước các thửa
đất. không sử dụng nên UBND xã đã giao lại cho ông Lê Văn Bụt, tháng 1/1999 ông
Bụt đã chuyển nhượng cho ông Lê Năng Nguyễn, theo bản đồ năm 2011 là thửa 223,
diện tích 4.806 m2, chủ sử dụng là ông Lê Năng Nguyễn. Khi thực hiện
dự án đường Bắc Nam 2 ông Lê Năng Nguyễn là người được bồi thường. Về số tiền
400.000 đ ông Vũ nộp chưa được nhận lại và tiền đền bù do UBND xã chặt cây cối
năm 1995 đã được giải quyết tại Quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của
Thanh tra huyện Tĩnh Gia, qua kiểm tra sổ sách Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải không
được bàn giao công nợ nên UBND xã Tĩnh hải không có cơ sở để giải quyết.
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 12. Gia đình tôi không sử dụng đất là vì UBND xã Tĩnh hải chiếm đoạt,
cản trở thực hiện quyền sử dụng đất, mặc dù có đầy đủ nhân chứng làm ruộng liền
kề xác nhận và các loại giấy tờ về đất giao nộp trong hồ sơ vụ án. Việc UBND xã
xác nhận cho ông Bụt chuyển nhượng đất thầu trả tiền hàng năm cho ông Nguyễn
trên đất nhà tôi tại vị trí đất có đơn khiếu nại là vi phạm khoản 3 Điều 8 Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999.
Về sơ đồ hiện trạng gia đình tôi sử dụng tại thời điểm năm 1993 mà gia đình tôi
và các hộ liền kề ký giáp ranh, tôi đã giao nộp cho Tòa án ngày 17/7/2017;
2/8/2017; ngày 25/8/2017 hoàn toàn phù hợp với bản đồ địa chính của UBND huyện
Tĩnh Gia tại BL71 (bản đồ đê 1998); BL72 (bản đồ tây đường 7-1998);
BL73 (bản đồ đê, cồn đồi 2011); BL89 (bản đồ đê 1998); BL90 (bản
đồ đê 1998); BL84 (bản đồ đất tây đường 7-2011); BL315 (bản đồ cồn
đồi 1998); BL321(bản đồ đê 1998); BL326 (bản đồ cồn đồi 1998).
Như vậy việc UBND xã Tĩnh Hải khẳng định tôi không nêu được vị trí ranh
giới thửa đất là không đúng với chứng cứ giao nộp trong hồ sơ vụ án. Về việc
bồi thường cây bị chặt phá, năm 2010 bà Nguyễn Thị Nga đang là kế toán xã, đã
từng chứng kiến ông Lê Trọng Hồng Chủ tịch UBND xã chỉ đạo thẩm định giá để bồi
thường cây chặt năm 1995 cho gia đình tôi, chưa giải quyết chi trả thì ông Hồng
chuyển công tác. Bà Nga lên làm chủ tịch khẳng định với tòa là không bàn giao
công nợ, không biết vụ việc và gia đình tôi chưa từng đòi bồi thường là không
đúng.
HĐXX tổng tóm tắt: "Người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm các ông bà: Lê Văn Sắt; Lê Năng Sen; Lê Văn
Hùng; Lê Thị Nhung; Lê Văn Nguyện; Lê Năng Nguyễn; Lê Văn Huấn; Lê Ngọc Trung
có đơn và bản tự khai trình bày: Khoảng năm 1988 đến năm 1993 các gia đình cùng
nhau khai hoang tại bờ đê Hoàng Hóa thuộc địa phận xã Tĩnh hải, huyện Tĩnh Gia
và được Nhà nước giao đất theo dự án 327, .... Việc ông Lê Văn Huy ủy quyền cho
con trai là ông Lê Minh Vũ khởi kiện Quyết định phê duyệt bồi thường số
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của UBND huyện Tĩnh Gia là không có cơ sở, đề nghị
Tòa xét xử theo quy định của pháp luật."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 13. Lời khai của 8
hộ mâu thuẫn với quyết định GQKN tại BL 109 và BL119 bởi đơn và QĐ-GQKN
của các hộ không đề cập gì đến việc các hộ khai hoang đất tại đê Hoàng Hóa, mâu
thuẫn không được làm rõ do các hộ vắng mặt cả trong đối thoại và xét xử nên mâu
thuẫn không được làm rõ. Các BL104 đến 120 đều là các quyết định năm
2010 Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia GQKN về việc 8 hộ đòi đất dự án 327, nhưng
các Quyết định đều ghi rõ, 8 hộ đó đòi bồi thường đất dự án 327 là không có cơ
sở nên QĐ 8745 làm giả chỉ hỗ trợ không bồi thường về đất nhưng BL153 cả
bồi thường đất và hỗ trợ cho 8 hộ thì việc hủy quyết định 8745 của chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia là có căn cứ và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm đối với
người có thẩm quyền trong việc làm giả hồ sơ nhận tiền bồi thường trái pháp
luật.
Như vậy QĐ 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia là quyết định trái pháp luật, mang
tính chất cố ý, rất nghiêm trọng "vi phạm kép" đó là: Quyết định làm
đường trên đất tranh chấp - Lập hồ sơ giả ban hành quyết định hỗ trợ cho 8 hộ
trên đất gia đình tôi đang có khiếu kiện - Ban hành quyết định hỗ trợ cho 8 hộ
bỏ hoang đất từ năm 1999-2005 mà Các quyết định của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia năm 2010, quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa năm 2012 và bài phát
biểu trực tiếp của Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, Nguyễn Thị Nga trên Báo diễn đàn
Doanh nghiệp khẳng định - Ban hành quyết định bồi thường hỗ trợ không xác định
được quyền sử dụng đất cho chủ sử dụng đất, trong khi gia đình tôi khiếu nại
liên tục trong thời gian dài có đầy đủ nhân chứng, vật chứng thì không xem xét
giải quyết.
Kháng cáo
kết luận của Hội đồng xét xử (HĐXX):
HĐXX kết luận:"Những
người làm chứng gồm các ông bà: Lê Quang Hồng, Lê Thị Ninh, ông Lê Hữu Bút, ông
Lê Văn Quang có bản tự khai thống nhất như sau: Đất của các gia đình ông Hồng,
bà Ninh, ông Bút, ông Quang nằm giáp phía Bắc và phía Nam đất của gia đình ông
Huy tại Đê Làng. Năm 1994 UBND xã Tĩnh Hải thu toàn bộ đất tại Đê làng cho thầu
nuôi tôm với thời hạn 20 năm (1994-2014), các ông bà đã có đơn khiếu nại đòi
đất nhưng không được UBND xã Tĩnh hải và UBND huyện Tĩnh Gia giải quyết. Tất cả
các ông bà đã ký vào sơ đồ "Hiện trạng Đê làng, Đê Mới và Đê Hoàng Hóa
trước năm 1993" do ông Lê Minh Vũ lập để công nhận vị trí liền kề và cam
đoan khu đất của ông Huy liền kề với khu đất của các ông, bà là có thật, việc
ông Huy khởi kiện đòi đất là đúng đề nghị Tòa xem xét giải quyết.
Tòa án đã tiến hành kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ và tiến hành đối thoại, nhưng các
bên không thống nhất được với nhau, do vậy vụ án được đưa ra xét xử theo thủ
tục sơ thẩm".
1. Kháng cáo kết luận ý thứ nhất: Theo đơn bổ sung
ngày 1/7/2017 tôi có bổ sung người có nghĩa vụ liên quan là ông Lê Văn Quang;
ông Lê Văn Bút; ông Lê Quang Hồng; bà Lê Thị Ninh nhưng Thẩm phán không đồng ý
nên các ông bà không được triệu tập đối thoại làm rõ.
HĐXX kết luận: "Tại phiên
tòa, người khởi kiện giữ nguyên nội dung khởi kiện. Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phát biểu quan điểm:"
2. Kháng cáo kết luận ý thứ hai: HĐXX khẳng định
người khởi kiện giữ nguyên nội dung khởi kiện do vậy HĐXX đã không xem xét các
đơn đề ngày 28/12/2016, nhật ấn bưu điện ngày 2/1/2017. Đơn đề ngày 2/3/2017,
nộp ngày 2/3/2017. Đơn đề ngày 12/4/2017 nộp ngày 12/4/2017. Đơn bổ sung thêm
yêu cầu khởi kiện đơn đề ngày 16/8/2017, giao nộp ngày 25/8/2017. Đơn đề ngày
12/9/2017, giao nộp ngày 12/9/2017 là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vụ án cần xét xử lại.
HĐXX nhận định: "Về việc
tuân thủ pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân
thủ đầy đủ, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục từ khi thụ lý, tổ chức đối thoại,
quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến tại phiên tòa sơ thẩm; người tham gia tố
tụng đã được thực hiện đầy đủ, đảm bảo đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo
quy định của Luật tố tụng hành chính (sau đây viết tắt là TTHC)"
3. Kháng cáo kết luận ý thứ
ba: HĐXX kết luận như vậy là không đúng do:
+ Tòa án không hướng dẫn sửa
đổi bổ sung đơn theo quy định; kéo dài thời hạn thụ lý 4 tháng 9 ngày, quá hạn mà không có lý
do chính đáng.
+ Đối thoại và xét xử vắng mặt
người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên các mâu thuẫn không
được làm rõ, là nguyên nhân HĐXX ra bản án không đúng.
HĐXX nhận định: Về nội dung: Đề
nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 116; điểm g, khoản 1
Điều 143 của luật TTHC: Đình chỉ giải quyết yêu cầu hủy quyết định GQKN số
01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của Thanh tra
huyện Tĩnh Gia và yêu cầu tuyên bố hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND
xã Tĩnh Hải từ năm 1993-1995 đối với gia đình ông Lê Văn Huy; bác yêu cầu hủy
Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của UBND huyện
Tĩnh Gia và miễn án phí hành chính sơ thẩm cho ông Lê Văn Huy theo quy định của
pháp luật
4. Kháng cáo kết luận ý thứ
tư:
- HĐXX đình chỉ giải quyết yêu
cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG là đình
chỉ nội dung khởi kiện bổ sung theo hướng dẫn theo định hướng của Thẩm phán.
Theo đơn khởi kiện đầu tiên ngày 28/12/2016 tôi không yêu cầu hủy quyết định
01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của thanh tra huyện Tĩnh Gia, mà nêu nội dung xác
minh với tư cách là nguồn chứng cứ. Khi Thẩm phán hướng dẫn (bằng lời nói) cho
tôi sửa đơn, Thẩm phán có hỏi tôi: "anh cho rằng quyết định 01/QĐ-TTTG là
không đúng thẩm quyền thì anh yêu cầu hủy hay để lại phải yêu cầu rõ". Do
đó trong đơn sửa đổi ngày 10/4/2017 tôi có thêm 2 yêu cầu đó là: Đề nghị
bảo lưu phần kết quả xác minh tại quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của Phó
thanh tra huyện Tĩnh Gia để làm căn cứ xem xét vụ việc và yêu cầu Hủy quyết
định GQKN số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của thanh tra huyện Tĩnh Gia. Việc đình chỉ giải quyết yêu cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG là việc chấm dứt
truy cứu trách nhiệm đối với người ra quyết định trái pháp luật, còn việc gia
đình tôi đòi tài sản là bất động sản bị chiếm đoạt thì không ảnh hưởng vì quyết
định này không phải là quyết định giải quyết khiếu nại mà pháp luật tại thời
điểm đó quy định. Đối với yêu cầu xin bảo lưu kết quả xác minh của thanh tra
huyện HĐXX chưa có ý kiến gì.
- HĐXX đình chỉ giải quyết yêu
cầu tuyên bố hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải từ năm
1993-1995 đối với gia đình ông Lê Văn Huy là không đúng. Bởi vì tuyệt đối tôi không khởi kiện hành vi thu
hồi đất trái pháp luật, mà có yêu cầu trả lại đất chiếm đoạt là áp dụng Điều 34
và 35 Luật TTHC. Do đó việc HĐXX tự đưa vào hành vi thu hồi đất trái
pháp luật là hành vi hành chính để áp dụng thời hiệu, chấm dứt quyền đòi tài
sản của gia đình tôi là không đúng.
- HĐXX bác yêu cầu hủy Quyết
định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của chủ tịch UBND
huyên Tĩnh Gia, thể hiện HĐXX không đánh giá chứng cứ bởi vì QĐ 8745 có những
vi phạm như sau:
+ Quyết định 8745 là quyết định có mục đích làm đường trên đất tranh chấp
chưa giải quyết, làm chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi.
+ Quyết định 8745 làm giả không bồi thường về đất cho 8 hộ, nhưng tại BL153
phương án có bồi thường về đất cho 8 hộ.
+ Quyết định 8745 làm giả để hỗ trợ cây cối hoa màu (vật nuôi), nhà, vật
kiến trúc trên đất hoang. Chứng cứ có số thứ tự 34 giao nộp theo đơn khởi kiện
ngày 10/4/2017 đó là lời khẳng định chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải trên truyền hình
về đất hoang
+ Quyết định 8745 làm giả để hỗ trợ cho người không sử dụng đất BL109
và 119 đó là các quyết định GQKN của chủ tịch UBND huyện và tỉnh.
+ Quyết định làm giả từ hồ sơ đất thầu hết thời hạn sang mục đích sử dụng
đất dự án 327 căn cứ BL281-286 trong hồ sơ vụ án.
Với các vi phạm đó, việc HĐXX bác yêu cầu hủy quyết định 8745 là không
đúng và có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp.
NHẬN ĐỊNH CỦA
TÒA ÁN
HĐXX nhận định: "Căn cứ
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; ý kiến của Kiểm sát viên và các bên
đương sự"
2. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Tài liệu chứng
cứ mâu thuẫn với nhau không được đánh giá thẩm tra, xem xét tại phiên tòa đó
là: Sổ thuế nông nghiệp chủ sử dụng
đất là ông Lê Văn Huy nhưng mục kê của xã chủ sử dụng đất lại là UBND xã; hồ sơ
giao đất thầu hết thời hạn nhưng lại làm hồ sơ bồi thường đất dự án 327; phương
án có bồi thường về đất nhưng quyết định 8745 lại không bồi thường về đất;
Yêu cầu trả lại đất chiếm đoạt tại 8 vị trí khác nhau về diện tích, mục đích sử
dụng đất, loại đất không được làm rõ cho từng vị trí mà chỉ nêu chung chung; nguyên đơn và bị đơn tranh chấp nhau về căn
cứ pháp lý, đó là việc nguyên đơn căn cứ Điều 10 Pháp lệnh khiếu nại
1991, bị đơn căn cứ Điều 11 Pháp lệnh khiếu nại 1991 không được làm rõ vv...
Trong phiên xét xử chỉ có ý kiến của người khởi kiện và người làm chứng, do
vắng mặt người bị và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên các mâu thuẫn
không được đối chất làm rõ. Do vậy việc HĐXX nhận định có ý kiến của các bên
đương sự là không đúng.
HĐXX nhận định: "Về đối tượng
vụ án hành chính: Ông Lê Văn Huy có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố QĐGQKN số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của Thanh
tra huyện Tĩnh Gia và Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 của UBND huyện Tĩnh Gia là trái pháp luật, đồng thời yêu cầu hủy các
quyết định nêu trên. Đây là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND tỉnh theo khoản 2 Điều 3; khoản 4 Điều 32 Luật TTHC. Đối với yêu cầu
xem xét hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải từ năm 1993 đến
năm 1995 với gia đình ông Lê Văn Huy có liên quan trong vụ án, song cần xem xét
về thời hiệu."
3. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án
- HĐXX nhận định nhầm yêu cầu giải quyết thành đối tượng khởi kiện, bởi
vì trong đơn khiếu kiện tôi có yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải trả lại đất chiếm đoạt
là căn cứ Điều 34 và Điều 35 Luật TTHC. Tuyệt
đối tôi không khiếu kiện hành vi thu hồi đất trái pháp luật, do vậy
việc HĐXX nhầm đối tượng chiếm đoạt thành đối tượng vụ án hành chính (thu hồi
trái) để áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính chấm dứt đòi tài sản là
không đúng.
HĐXX nhận định: "Về thời
hiệu khởi kiện: Tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật TTHC quy định: "01 năm kể
từ ngày nhận được, biết được Quyết định hành chính, hành vi hành chính".
Theo đó, Quyết định GQKN số 01/QĐ-TTTG của Thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành
ngày 26/9/1996 và hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải diễn
ra từ năm 1993-1995 đối với gia đình ông Huy (nếu có) đến nay đã hết thời hiệu
khởi kiện. Việc ông Lê Minh Vũ cho rằng gia đình ông liên tục khiếu nại đến các
cơ quan có thẩm quyền nhưng chưa được giải quyết không phải là sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan nên không tính vào thời hiệu khởi kiện. Do đó
Hội đồng xét xử sơ thẩm đình chỉ giải quyết một phần đơn khởi kiện (theo điểm a
khoản 2 Điều 116; điểm g khoản 1 Điều 143 Luật TTHC). Đối với Quyết định phê
duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND của UBND huyện Tĩnh Gia ban hành ngày
08/12/2016, ông Vũ nộp đơn khởi kiện ngày 12/4/2017 nên thời hiệu vẫn còn."
4. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Theo đơn khởi kiện ngày 28/12/2016 tôi không khởi
kiện quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996, trong hướng dẫn sửa đơn Tòa án định
hướng cho tôi yêu cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG.
- Việc HĐXX đình chỉ giải quyết hành vi thu hồi đất
trái pháp luật là không có căn cứ, vì theo đơn khởi kiện và đơn sửa đổi bổ sung
khởi kiện tôi chỉ yêu cầu giải quyết hành vi của UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt
đất. Hành vi chiếm đoạt không phải là hành vi hành chính do vậy HĐXX thay hành
vi chiếm đoạt thành hành vi thu hồi để chấm dứt việc gia đình tôi đòi tài sản
là không đúng. Việc tôi yêu cầu giải quyết hành vi chiếm đoạt trong vụ án hành
chính là áp dụng Điều 34 và 35 Luật TTHC 2015. Việc gia đình tôi đòi tài sản là
bất động sản (đất và tài sản trên đất), HĐXX đình chỉ một phần với việc đòi tài
sản là không đúng.
- Tôi nêu lên quá trình khiếu nại kéo dài và giao
nộp các Văn bản của tỉnh, Trung ương chỉ đạo chủ tịch UBND huyện giải quyết
khiếu nại không phải là chứng minh kéo dài thời hiệu khởi kiện. Mà là chứng
minh về khiếu kiện kéo dài không giải quyết, dù vậy từ năm 2013 trở về trước,
tôi không khởi kiện vụ án hành chính là vì không muốn ảnh hưởng đến hình ảnh
chính quyền và tránh được sự kỳ thị của cán bộ. Do khiếu nại không giải quyết
đã ban hành quyết định làm đường trên đất của gia đình tôi làm chấm dứt quyền
và lợi ích của gia đình tôi nên tôi phải khởi kiện.
- Hành vi
thu hồi đất trái pháp luật là hành vi hành chính nhưng không có căn cứ về việc
tôi khởi kiện UBND xã Tĩnh hải hành vi này. Trong đơn tôi khiếu kiện hành vi
của UBND xã Tĩnh Hải là hành vi chiếm đoạt tài sản quyền sử dụng đất và tài sản
găn liền trên đất là cây bị chặt phá. Căn cứ Bộ luật dân sự 2015, Điều 3 khoản
4 quy định: "Việc xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia,
dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác"
do vậy việc HĐXX áp dụng thời hiệu Luật TTHC quy định đối với việc tôi đòi tài
sản là sai.
+ Căn cứ
Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 1, khoản 2 thì Quyết định 8745/QĐ-UBND
của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, thời hiệu xác lập thời hiệu khởi kiện ngày
08/12/2016. Đối tượng khởi kiện này
HĐXX không đánh giá chứng cứ, tài liệu và cũng không được đối chất làm rõ tại
phiên tòa. Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 3, khoản 4
thì Hành vi hành chính của UBND huyện Tĩnh Gia do không giải quyết đơn khiếu
nại, thời hiệu xác lập hành vi khởi kiện là ngày 28/3/2016 và 28/4/2016 . Đối tượng khởi kiện này HĐXX không xem xét
tại phiên tòa. Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 3, khoản
4 thì Hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải, xét nguồn gốc đất đánh tráo khái
niệm, viện dẫn tự bào chữa không có căn cứ và không kiểm kê bồi thường, thời
hiệu xác lập hành vi khởi kiện là ngày 10/5/2016. Đối tượng khởi kiện này HĐXX không xem xét tại phiên tòa.
+ Căn cứ
đơn khởi kiện và đơn sửa đổi bổ sung thì không có đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính đối với hành vi thu hồi
đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải diễn ra từ năm 1993-1995 đối với gia
đình ông Huy do vậy HĐXX áp dụng thời
hiệu của Luật TTHC đối với yêu cầu đòi tài sản quyền sử dụng đất là không đúng.
Gia đình tôi đòi tài sản là bất động sản, đó là Quyền sử dụng đất bị UBND xã
Tĩnh Hải chiếm đoạt và cây gắn liền trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chặt phá. Việc
HĐXX tách đòi tài sản thành hai phần, để đình chỉ một phần việc đòi tài sản là
quyền sử dụng đất là HĐXX vi phạm Bộ luật dân sự quy định tại Điều 3 khoản 4.
HĐXX nhận định: "Về căn cứ
ban hành Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của
UBND huyện Tĩnh Gia: Tại khoản 1 Điều 74 Luật đất đai năm 2013 quy định:
"Người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường quy định tại điều 75 của luật này thì được bồi thường"; khoản 1
Điều 75 Luật đất đai 2013 quy định: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất
không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, Giấy chứng nhạn quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất
(Sau đây gọi là giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để dược cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất...". Như vậy điều kiện để được bồi thường phải là người có giấy tờ
hoặc là người đang sử dụng đất."
5.
Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 74 và khoản 1 Điều 75 Luật
đất đai 2013 áp dụng cho việc UBND huyện Tĩnh Gia ban hành Quyết định 8745 bồi
thường cho các hộ là cố ý làm trái quy định. Vì trong hồ sơ vụ án 8 hộ không có
bất cứ loại giấy tờ gì về đất, nêu rõ tại BL109 và BL119, QĐGQKN của
UBND huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa đều khẳng định các hộ đòi đất dự án 327
là không có cơ sở. Về phía chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, năm 2016 cũng khẳng định
trên truyền hình Báo Diễn đàn Doanh nghiệp về việc đất bị bỏ hoang không ai đầu
tư, cải tạo.
HĐXX
nhận định: "Theo ông Lê Minh Vũ,
nguồn gốc đất của 08/13 hộ được phê duyệt bồi thường theo quyết định 8745 là do
gia đình ông khai hoang trước năm 1980 tại khu vực Đê Đạo, Đê, Hoàng Hóa, Đê
Làng, và 67 thước tại hón tre là đất của ông cha ông, nhưng năm 1993 đến năm
1995 đã bị UBND xã Tĩnh Hải thu hồi trái pháp luật giao cho người khác. Tuy
nhiên toàn bộ hồ sơ quản lý đất đai các thời kỳ tại khu vực ông Huy khiếu kiện
là đất nông nghiệp do Hợp tác xã thôn Liên Vinh và UBND xã Tĩnh Hải quản lý
không có tên hộ ông Lê Văn Huy, năm 1993 được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ
nuôi trồng thủy sản theo Quyết định 327/CP ngày 15/9/1992, của Chính phủ, từ
năm 1993 đến nay gia đình ông Huy không sử dụng đất tại khu vực nêu trên"
6.
Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX nhận định đất đê đạo, đê Hoàng Hóa, đê Làng
và Hón Tre do thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải quản lý là phù hợp với quy định,
nhưng HĐXX không truy vấn vi phạm của UBND huyện về việc người sử dụng đất
trong sổ thuế nông nghiệp là ông Lê Văn Huy nhưng hồ sơ quản lý đất đai lại ghi
người sử dụng đất là UBND xã. Với các chứng cứ là sổ thuế nông nghiệp, giấy có
xác nhận của chủ tịch UBND xã trên diện tích tự khai 3 héc ta và giao đất thầu
ngày 28/8/1994 và kết quả xác minh của Thanh Tra huyện Tĩnh Gia ngày 26/9/1996
của gia đình tôi đã mâu thuẫn với nhận định của HĐXX đó là lý do bản án không
khách quan.
- Căn cứ BL227; BL 281-282-283-284-285-286
là hồ sơ giao thầu đất thì việc HĐXX khẳng định giao đất 327 cho các hộ là
sai. Việc gia đình tôi không sử dụng đất là do UBND xã chiếm, cản trở thực hiện
quyền sử dụng đất. Theo hồ sơ quản lý đất của xã giao nộp cho tòa án thì các
thời kỳ đều ghi chủ sử dụng là UBND xã là hoàn toàn phù hợp với việc gia đình
tôi khiếu kiện về việc UBND xã chiếm đoạt đất của gia đình tôi. HĐXX khẳng
định, năm 1993 được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng thủy sản theo
Quyết định 327/CP ngày 15/9/1992, của Chính phủ. Nhận định này mâu thuẫn với
đất nông nghiệp canh tác có hiệu quả theo sổ thuế nông nghiệp, giấy giao thầu,
thì rõ ràng 8 hộ là người tiêu thụ đất chiếm đoạt của UBND xã đó là:
+ Thứ
nhất: Dự án 327 chỉ thực hiện trên đất hoang, đã mâu thuấn với Sổ thuế nông
nghiệp của gia đình tôi hoàn thành nghĩa vụ thuế đến vụ 10 năm 1993 thể hiện
đất canh tác có hiệu quả. Do vậy việc giao đất dự án 327, cho của gia đình tôi
cho các hộ vào năm 1993 là không có căn cứ.
+ Thứ
hai: Căn cứ giấy giao thầu cho ông Lê Văn Vũ; ông Lê Văn Hùng; ông Lê Văn Bụt
(chuyển nhượng cho Lê Năng Nguyễn) tại các BL227; BL
281-282-283-284-285-286 thì khẳng định việc lấy đất của ông Huy giao thầu thu
tiền hàng năm, có thời hạn rồi làm giả hồ sơ ban hành quyết định 8745 bồi
thường hỗ trợ cho các hộ theo dự án 327 là trái pháp luật.
+ Thứ ba:
Trong hồ sơ vụ án các Văn bản của UBND xã; UBND huyện; UBND tỉnh GQKN cho các
hộ (có 8 hộ) đều khẳng định, các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở.
Như vậy
việc HĐXX nhận định 8 hộ có tên trong QĐ 8745 trùng trên đất của gia đình tôi
được giao đất theo dự án 327 là không có căn cứ và mâu thuẫn với tài liệu chứng
cứ trong hồ sơ vụ án mà nguyên đơn và bị đơn giao nộp. HĐXX không làm rõ việc
đánh tráo khái niệm của UBND huyện Tĩnh Gia. Đó là việc tôi đòi trả đất chiếm
đoạt không trả đánh tráo thành gia đình tôi không sử dụng, bởi việc bỏ đất
không sử dụng và đất bị chiếm không được sử dụng là hoàn toàn khác nhau.
HĐXX nhận định: "Đối với "Sổ thuế nông nghiệp"
mang tên Hoàng Huy (theo ông Vũ sổ này lập năm 1992) không phải là giấy tờ về
đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013, bản thân ông Lê Minh Vũ ngày
21/8/1994 đã có "Đơn xin nhận thầu đê" tại khu vực Hón Tre được Chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt cho nhận thầu 5-6 sào (tương đương 2.355m2),
năm 1994 ông Vũ đã nộp số tiền 400.000đ để thầu nuôi tôm là có thật nhưng chưa
được nhận đất (BL58). Tại Quyết định GQKN số 01/QĐ TT TG ngày 26/9/1996 đã giải
quyết "... Việc khiếu nại bồi thường công khai hoang là không đúng, Ủy ban
nhân dân xã Tĩnh Hải phải thanh toán tiền chặt cây và tiền đấu thầu nuôi tôm
cho gia đình ông Huy vì ông có nguyện vọng rút lại số tiền đó" (BL10). Như
vậy từ năm 1995 ông Lê Văn Huy không yêu cầu đòi đất mà chỉ khiếu nại yêu cầu công
khai hoang."
7. Kháng
cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX
khẳng định" Sổ thuế nông nghiệp không phải là giấy tờ về đất
theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013", thể hiện HĐXX không đánh
giá chứng cứ. Trước luật đất đai 1993, trong khoán 10 năm 1987 Sổ thuế nông
nghiệp quy định về việc phản ánh đất quy chủ cho nông hộ là bằng chứng về việc
nhà nước công nhận quyền sở hữu về đất cho hộ gia đình, cá nhân. Tổng cục thuế,
Bộ tài chính phát hành sổ quy
định:
"Sổ thuế nông nghiệp phản ánh toàn bộ
diện tích ruộng đất quy chủ cho nông hộ quản lý sử dụng, căn cứ tính
thuế và tính sổ thuế phải nộp theo pháp lệnh. Căn cứ ghi chép sổ gồm: Tờ
khai diện tích đất trồng cây hàng năm (Mẫu 3A/TNN) và tờ khai diện tích
đất trồng cây lâu năm (Mẫu 3B/TNN). Sổ
giao khoán nhận thầu ruộng đất của HTX và xã. Giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất của nông hộ. Tài liệu về định sản lượng khoán,
định hạng đất hoặc sản lượng (giá trị sản lượng) tính thuế của xã. Định Suất thuế đối với hạng đất,
thuế suất (%) đối với từng loại cây trồng tính theo Pháp lệnh thuế nông nghiệp. Tài liệu tính phân bổ
trên diện tích chung như đất giao thông thủy lợi nội đồng... Sổ thuế do chủ hộ quản lý. Sổ thuế
được xác định số sổ của từng hộ ghi vào ô
chữ nhật ở bìa sổ. Số của sổ đúng với số thứ tự của hộ trong sổ bộ thuế NN của
xã để tiện việc theo dõi quản lý. Sổ thuế nông nghiệp của hộ do cán bộ thuế NN xã, phường ghi
không ai được tự ý ghi chép hoặc tẩy xóa. Nếu chủ hộ thấy có sai sót thì báo
cáo cho cán bộ thuế xã kiểm tra điều chỉnh. Sau khi điều chỉnh cán bộ thuế phải
ký xác nhận và ghi rõ họ tên vào sổ. Nông hộ đến nộp thuế phải mang theo
sổ...".
Theo quy
định tại thời điểm cấp sổ thì, Sổ thuế nông nghiệp giao đất đến từng hộ gia
đình cá nhân trong khoán 10 năm 1987 có giá trị pháp lý về quyền sở hữu cho chủ
sử dụng đất, giá trị pháp lý cao hơn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
Luật đất đai 1993 là vì: Sổ thuế nông
nghiệp phản ánh đất quy chủ cho nông hộ quản lý, sử dụng. Như vậy Sổ nông
nghiệp đủ điều kiện được phép thay thế: Tờ khai, Sổ giao khoán, Giấy chứng nhận
sử dụng ruông đất, Tài liệu về định sản lượng, Định suất thuế thực hiện theo
pháp lệnh. Trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện hành nhà
nước đại diện chủ sở hữu, người dân chỉ được quyền sử dụng.
HĐXX cho rằng "Sổ thuế nông
nghiệp" mang tên Hoàng Huy (theo ông Vũ sổ này lập năm 1992) không phải là
giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 là sai bởi sổ thuế
nông nghiệp đủ điều kiện đại diện cho các loại giấy tờ về đất theo khoán 10 năm
1987 và là căn cứ xác định chủ sử dụng đất.
- HĐXX
nhận định: ông Lê Minh Vũ được Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt cho nhận thầu
5-6 sào (tương đương 2.355m2), năm 1994 ông Vũ đã nộp số tiền
400.000đ để thầu nuôi tôm là có thật nhưng chưa được nhận đất (BL58). Rõ ràng
HĐXX không hề đánh giá xem xét chứng cứ, phát quyết theo cảm thích là vì: Theo
nguồn chứng cứ thanh tra huyện Tĩnh Gia xác minh tại quyết định 01/QĐ-TTTG ngày
26/9/1996 kết luận: "Xã đã giao cho gia đình ông Huy (tức là ông Vũ) 2355m2
đất đấu thầu nhưng bị người khác chiếm". Nhưng thanh tra huyện lại yêu cầu
UBND xã trả tiền, rõ ràng người khác chiếm đất của tôi chính là UBND xã, bởi
chỉ có người chiếm đất mới phải trả tiền. Do vậy HĐXX khẳng định tôi chưa được
giao đất là HĐXX không đánh giá chứng cứ.
- Ông Lê Văn Huy không đòi công khai hoang, mà là đòi đất. Để chứng minh
cho việc thanh tra huyện Tĩnh Gia, xác minh sơ sài thiếu, trách nhiệm, sai đối
tượng khiếu nại, không đúng nội dung đơn có căn cứ đó là: Hồ sơ ông Vũ thầu đất, đòi đất nhưng lại
xác minh là ông Huy đòi đất.
Kết luận đất của thầu của ông Huy bị
người khác chiếm nhưng yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải trả tiền, công nhận xã
chặt cây làm đường điện và đường giao thông, như quyết định chỉ nói rõ đến việc
đền cây còn việc chiếm đất làm đường thì chỉ nói chung chung đó là "xã chặt cậy làm đường điện và đường giao
thông nông thôn là có thật chưa bồi thường cho ông". UBND xã giao cho ông Vũ 6 sào là phù
hợp với diện tích đất của ông Vũ mà xã chiếm giao cho ông Bụt (ông Bụt chuyển
nhượng cho ông Nguyễn) theo xác minh
của thanh tra thì UBND xã đã
giao cho tôi 2355m2 đất là có căn cứ, nhưng bị UBND xã chiếm đoạt
lại. Thanh tra không có biên bản nào làm việc với ông Huy nên việc khẳng
định ông Huy đòi công khai hoang là không có cơ sở, theo đơn khiếu kiện gửi các
thời kỳ thì gia đình tôi đòi đất khai hoang, không đòi bồi thường công khai
hoang.
HĐXX
nhận định: "Năm 2016 thực hiện
Dự án xây dựng đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn, căn cứ Luật đất đai
2013, căn cứ hiện trạng sử dụng đất, UBND huyện Tĩnh Gia cũng không bồi thường
về đất, mà tại Quyết định 8745 chỉ phê duyệt bồi thường tài sản và chính sách
hỗ trợ đối với các hộ đang trực tiếp nuôi trồng thủy sản là có căn cứ và đúng
đối tượng. Hội đồng xét xử sơ thẩm không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Lê
Văn Huy hủy Quyết định phê duyệt bồi thường của UBND huyện Tĩnh Gia."
8.
Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Nhận định này của HĐXX đối chiếu với quyết định
8745 không bồi thường về đất là mâu thuẫn bởi BL153 có bồi thường về đất,
điều này thể hiện UBND huyện Tĩnh Gia đã làm giả hồ sơ bồi thường chiếm đoạt
tài sản. Là lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái quy định, do HĐXX không
đánh giá chứng cứ, xét xử vắng mặt người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đó là nguyên nhân HĐXX không chấp nhận yêu cầu hủy quyết định 8745.
- Quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016
không bồi thường về đất cho 8 hộ, nhưng BL153 Bảng tổng hợp dự toán bồi thường
của UBND huyện Tĩnh Gia lại có bồi thường đất đai cho 8 hộ trùng đất gia đình
tôi là mâu thuẫn, đối lập. Là phạm tội: làm giả hồ sơ, tham ô tài sản, lợi dụng
chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng,
và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do HĐXX HC-ST không đánh giá chứng cứ,
chỉ căn cứ lời khai của UBND huyện Tĩnh Gia khẳng định: "UBND huyện Tĩnh
Gia cũng không bồi thường về đất, mà tại Quyết định 8745 chỉ phê duyệt bồi
thường tài sản và chính sách hỗ trợ đối với các hộ đang trực tiếp nuôi trồng
thủy sản là có căn cứ và đúng đối tượng" là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nguy hiểm hơn đó là dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm và xâm phạm hoạt động tư pháp.
HĐXX nhận định: "Về yêu
cầu UBND xã Tĩnh Hải bồi thường do hành vi thu hồi đất trái pháp luật từ năm
1993-1995 là không có cơ sở và đã hết thời hiệu khởi kiện; đối với yêu cầu UBND
xã Tĩnh Hải bồi thường tiền chặt cây của gia đình từ tháng 1/1995 và số tiền
400.000đ đã nộp để đấu thầu đất nuôi tôm từ năm 1994, ông Huy có quyền khởi
kiện trong vụ án dân sự khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự."
9. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX khẳng định tôi yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải bồi thường đất do hành vi
thu hồi là không đúng bởi vì: Đơn khiếu kiện tôi không đòi UBND xã bồi thường,
mà là đòi UBND xã trả lại đất chiếm đoạt. Tôi không khởi kiện vụ án hành chính
đối với hành vi thu hồi đất trái pháp luật nên HĐXX căn cứ thời hiệu Luật TTHC
quy định để bác yêu cầu đòi tài sản là đất quy chủ của gia đình tôi mà chủ tịch
UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt là không đúng. Việc gia đình tôi khiếu nại đòi đất
và cây trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chặt phá để chiếm đoạt đất làm đường điện,
đường giao thông nông thôn là việc đòi tài sản là bất động sản. HĐXX đình chỉ
một phần việc đòi tài sản là không khách quan bởi đất và tài sản trên đất đều
là bất động sản có chủ (đất quy chủ), mà chủ sở hữu là gia đình tôi nên tài sản
đó là bất khả xâm phạm và không ai có quyền chấm dứt quyền đòi tài sản khi
khiếu nại kéo dài chưa giải quyết. Đối với 400.000đ tôi nộp cho UBND xã Tĩnh
Hải và đã được UBND xã Tĩnh Hải giao đất là có căn cứ, do vậy việc trả lại tài
sản cho tôi là QSD đất thầu chứ không phải là 400.000đ như HĐXX khẳng định.
- Tài sản là bất động sản (đất quy chủ cho nông hộ và cây gắn liền trên
đất) của gia đình tôi bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt, tôi yêu cầu Tòa án giải
quyết là căn cứ điều 34 và 35 Luật TTHC. Việc HĐXX đình chỉ một phần tài sản bị
chiếm đoạt là không đúng.
HĐXX Quyết
định: QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 32; điểm a khoản
2 Điều 116; điểm g khoản 1 Điều 143; khoản 1 Điều 158; điểm a khoản 2 Điều 193;
Điều 204; khoản 1 Điều 206 Luật tố tụng hành chính
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 74; khoản 1 Điều
75 Luật đất đai năm 2013.
1. Đình chỉ giải quyết một phần đơn khởi
kiện của ông Lê Văn Huy về yêu cầu hủy Quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996
của Thanh tra huyện Tĩnh Gia và yêu cầu tuyên bố hành vi thu hồi đất của UBND
xã Tĩnh Hải đối với gia đình ông từ năm 1993 đến năm 1995 là trái pháp luật.
2. Bác đơn khởi kiện của ông Lê Văn Huy
yêu cầu hủy Quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Ủy ban nhân dân
huyện Tĩnh Gia về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng dự án: Đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn
10. Kháng cáo Quyết định bản án:
Theo nội dung kháng cáo chi tiết nêu
trên, HĐXX đã bỏ bớt: đơn khởi kiện ban đầu; đơn sửa đổi bổ sung; chứng cứ; không
xem xét đối tượng khởi kiện hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải được xác
lập tại biên bản ngày 10/5/2016; không đánh giá chứng cứ; Xét xử không được đối
chất làm rõ tại phiên tòa; xét xử không khách quan; thiên vị. Đó là lý do tôi
làm đơn kháng cáo tòa bộ bản án số 49/2017/HC-ST ngày 12/9/2017 của Tòa án Nhân
dân tỉnh Thanh Hóa, Kính mong Tòa án phúc thẩm, Tòa án Cấp cao tại Hà Nội xem
xét hủy bản án sơ thẩm số 49/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án Nhân dân tỉnh
Thanh Hóa để xét xử lại từ đầu. Thay mặt gia đình tôi xin trân trọng cảm ơn
NGƯỜI LÀM ĐƠN
Đại diện theo ủy quyền
Lê Minh Vũ