CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh Phúc
Kính gửi: Chủ tịch UBND tỉnh huyện Tĩnh Gia
Họ và tên: Lê
Văn Huy.
Địa chỉ: Đội 1,
thôn Vinh Quang, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Tôi xin đề nghị
ông giải quyết về việc chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải Lê Thánh Sắc, chiếm đoạt đất
cấy hai vụ lúa và chặt cây lưu niên trong vườn nhà tôi lấy đất mà không đền bù
cụ thể như sau:
1 – KHU ĐẤT ĐÊ
HOẰNG HÓA, ĐÊ ĐẠO (Phía tây bờ đê làng):
- Năm 1977 nhà
nước ngăn sông bạng, dân công huyện Hoằng Hóa đắp đê bao ngăn lũ. Vùng sình lầy
tạo giữa bờ đê Làng và bờ đê do dân công Hoằng Hóa đắp gọi là đê Hoằng Hóa.
Cũng từ năm đó đê hoằng hóa trở thành đập nước ngọt. Gia đình tôi đã khai hoang
cải tạo san phẳng khu đất để cấy lúa. Phía đông giáp chân bờ đê làng, chạy dài
theo chân đê với chiều dài là 450m, chiều rộng cấy lúa bình quân10m. Phía bắc
giáp ruộng khai hoang gia đình ông Thủy (vợ là Thiết, người cùng xóm). Phía nam là đê Đạo, giáp ruộng khai hoang của gia đình ông Lê Hữu Bút, ông Lê Văn Quang và bà Lê
Thị Tược người cùng thôn. Phía tây là hón sâu, học đất đắp bờ đê Hoằng Hóa. Khu
vực hón sâu và học đất tôi tận dụng cấy rau muống, đắp chum và bỏ chà nuôi cá
tự nhiên. Diện tích đất cấy lúa khoảng 2 héc ta sử dụng ổn định, không tranh
chấp là diện tích mà ngày 21/8/1994 chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải xác nhận trên đơn của gia đình tôi. Diện tích thực đo tổng thể là 58.000 m2 (5,8 ha).
+ Đến tháng 5/1993
chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải thông báo lấy toàn bộ khu đất khoảng 2 héc ta của gia
đình tôi nói là cho dự án 327. Tôi đề xuất giữ lại thực hiện dự án thì UBND xã
không cho. UBND xã lấy giao cho các gia đình: Lê Năng Sen; Lê Văn Nguyện; Lê
Văn Trường; Lê Văn Huấn; Lê Văn Sắt; Lê Ngọc Trung vv... Ngay khi bị UBND xã lấy hết đất ở đê Hoằng Hóa,
đê Mới gia đình tôi phải sang UBND xã Trúc Lâm nhận thầu 25 héc ta đất để làm.
Có hợp đồng thầu 25 héc ta đất của UBND xã Trúc Lâm ký ngày 15/5/1993. Đây được coi là bằng chứng về
việc gia đình tôi bị chiếm đất nên phải sang xã khác thuê đất làm.
2 – KHU ĐẤT ĐÊ
LÀNG (Phía đông đê làng)
Gia đình tôi có
67 thước ruộng cấy 2 vụ lúa của các cụ đời trước để lại, hiện gia đình còn lưu giữ sổ thuế nông nghiệp quy định rõ về chủ sở hữu:" Sổ
thuế nông nghiệp phản ánh tòan bộ diện tích ruộng đất quy chủ cho nông hộ quản
lý sử dụng, căn cứ tính thuế và tính sổ thuế phải nộp theo pháp lệnh",
bên cạnh là hón sâu và cồn cạn. Tôi đã khai hoang mở rộng diện tích bằng việc phát
rậm, đào cạn lấp sâu được thêm khoảng 1 héc ta để cấy lúa. Phía đông giáp đồng
ruộng giao theo khoán 10 của đội 2 và đội 3 thôn Vinh Quang. Phía tây giáp bờ
đê làng chiều dài 260m. vượt qua trùng lò vôi Phía nam, góc đông nam giáp đất của gia đình bà Lê Thị Tược, chính giữa hướng nam tiếp giáp
với đường trục trước nhà Văn hóa thôn Liên Vinh. Phía bắc giáp
ruộng thờ cúng liệt sỹ của ông Sạy (ông Dẩy).
Tổng số trong 67
thước đất (theo sổ thuế) và khoảng 1 héc ta đất khai hoang, trong đê làng đang
canh tác ổn định, không tranh chấp. Đến tháng 8/1994 chủ tịch UBND xã lấy hết
khu đất kể trên chia nhau và kêu gọi cho thầu, tôi phản đối không giao đất thì
chủ tịch xã tuyên bố nếu xuống cản trở bắt trói lại nên gia đình tôi không dám
chống đối. Bị mất đất canh tác, ngày 21/8/1994 con trai tôi (Vũ) phải
làm làm đơn xin thầu lại khoảng 3 héc ta đất. Tương ứng với đất của gia đình
mình mà chủ tịch xã đã thu, để có đất làm ăn sinh sống. Nhưng chủ tịch UBND xã
duyệt ngay trên đơn giao thầu cho 6 sào trong phạm vi đất khai hoang, bắt con
tôi phải đóng 400.000 đ (bốn trăm nghìn đồng) có phiếu thu tiền. Về việc thu
đất ông Sắc nói với tôi rằng theo nghị
quyết chung đất nông nghiệp nhà nước thu hồi để nuôi trồng thủy sản, đất khai
hoang căn cứ thực tế xã sẽ trả công khai hoang cho gia đình tôi là 1100000 đ
(một triệu một trăm nghìn đồng). Do tôi làm đơn khiếu nại đến UBND xã đòi 67
thước đất thuế và khoảng 3 héc ta đất khai hoang nên ông Sắc lấy lại 6 sào đất thầu nuôi
tôm của con tôi giao cho anh Lê Văn Bụt.
+ Như vậy gia
đình tôi bị chủ tịch UBND xã chiếm đoạt 67 thước đất trong sổ thuế nồng nghiệp
và khoảng 3 héc ta đất khai hoang ở đê Làng, đê Hoằng hóa, đê Mới (Chủ tịch UBND xã xác nhận ngày 21/8/1994) và chiếm đoạt
của con trai tôi 6 sào đất thầu nuôi tôm. Gia đình tôi đã nộp đơn
khiếu nại đến chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia nhưng không giải quyết.
3 – CHẶT PHÁ CÂY
LƯU NIÊN LẤY ĐẤT VƯỜN LÀM ĐƯỜNG
Liên tục 3 ngày
15, 16 và 17/1/1995. Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải Lê Thánh Sắc, Lê Ngọc Dàu là người trực tiếp
chỉ huy đoàn người vào chặt phá cây lưu niên trong vườn của gia đình tôi. Theo
biên bản nghiệm thu cây màu thiệt hại của cán bộ thôn lập thì thiệt hại gồm: 139 cây tre, 22 cây trúc, 18
cây kè, 2 cây dừa, 2 cây nhãn, 4 cây xoan, 2 cây bưởi, 1 cây mít, 2 khóm mây. Số
lấy đất làm đường là: 428m2 (chiều dài đông tây 95m x sâu chiều nam
bắc 4,5m).
- Vậy tôi làm
đơn này xin đề nghị ông chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia giải quyết:
+ Xin trả lại 67
thước đất trong sổ thuế nông nghiệp
+ Xin trả lại
khoảng 3 héc ta đất khai hoang của gia đình tôi trong phạm vi nêu trong đơn
giao thầu mà chủ tịch xã đã phê duyệt giao đất, trên tại các đê Làng, đê Hoằng
Hóa, đê Đạo và đê Mới.
+ Xin trả lại 6
sào đất nuôi tôm cho Lê Văn Vũ, con trai tôi. Trường hợp UBND xã trả lại đất trong
sổ thuế nông nghiệp và đất khai hoang cho tôi thì trả lại cho con tôi 400000đ
(bốn trăm nghìn đồng) tiền thầu đất nuôi tôm
+ Xin bồi thường
toàn bộ số cây đã chặt để làm đường theo biên bản cán bộ thôn lập ngày
15/1/1995 và ngày 17/1/1995.
+ Xin cấp bù cho
gia đình tôi 428 m2 (bốn trăm hai mươi tám mét vuông) đất vườn mà UBND xã lấy
mở đường giao thông nội xóm rộng 6 mét.
- Để đảm bảo
quyền lợi chính đáng, tôi kính mong ông chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia giải
quyết. Thay mặt gia đình tôi xin chân thành cảm ơn
(Ngày 08/8/1997 sao lưu theo bản gốc đơn viết tay, tại số nhà 166 Lê Hoàn)
Tĩnh Gia ngày 25 tháng 9 năm 1995
NGƯỜI LÀM ĐƠN
Lê Văn Huy (đã ký)
Quyết định trái pháp luật của thanh tra huyện Tĩnh Gia
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh Phúc
ĐƠN KHIẾU NẠI
Về việc thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành văn bản trái pháp luật
Kính gửi: Ông Chủ tịch UBND tỉnh huyện Tĩnh Gia
Họ và tên: Lê
Văn Huy.
Địa chỉ: Đội 1,
thôn Vinh Quang, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
- Theo nội dung
đơn khiếu nại của gia đình tôi, đề ngày 25/9/1995. Sau khi tôi kiến nghị giải
quyết nhiều lần, ngày 26/9/1996 Phó chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành
quyết định số 01 QĐ/TT TG về việc giải quyết khiếu nại của ông Lê Văn Huy thôn
Vinh Quang xã Tĩnh Hải, sau khi đọc quyết định tôi cho rằng:
- Việc phó chánh
thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành quyết định giải quyết đối với việc khiếu nại
về sai phạm của chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải là không đúng quy định. Phó chánh
thanh tra huyện ban hành quyết định gải quyết khiếu nại là trái thẩm quyền. Do
vậy tôi cho rằng định số 01 QĐ/TT TG ngày 25/9/1995 của phó chánh thanh tra
huyện Tĩnh Gia là quyết định không có hiệu lực pháp luật.
+ Như vậy mặc nhiên là đơn khiếu nại ngày 25/9/1995
đến nay Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia chưa ban hành quyết định giải quyết.
- Đơn khiếu nại
nêu rất rõ, chi tiết về loại đất, diện tích, số lượng cây mà chủ tịch UBND xã
chỉ đạo chặt. Nhưng trong phần xác minh của quyết định, không ban hành văn bản
kèm theo. Quyết định cũng không nêu rõ loại đất, diện tích và số lượng các loại
cây bị chặt.
+ Tuy Thanh tra huyện đã công nhận chủ tịch
UBND xã Tĩnh Hải có thu đất trong sổ thuế nông nghiệp, có thu đất khai hoang,
có chặt cây nhưng còn nêu chung chung chưa đáp ứng số liệu cần thanh tra để hoàn
trả và bồi thường chi tiết.
- Đơn khiếu nại
nêu: chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt 6 sào (3000 m2) đất thầu nuôi tôm,
nhưng phó chánh thanh tra không xác minh có hay không việc chủ tịch UBND xã
chiếm đoạt. Phó chánh thanh tra đã đưa ra diện tích dưới mức là 2355 m2, đồng
thời xác minh là bị người khác chiếm và yêu cầu UBND xã trả lại 400.000đ cho
ông Huy. Như vậy tại sao thanh tra không xác minh vì sao người khác chiếm,
người khác là ai, tại sao người khác chiếm mà UBND xã lại phải trả lại tiền,
UBND xã lấy đâu ra tiền để trả.
+ Với việc xác
minh như vậy là không khách quan, tự ấn định số liệu, bao che sai phạm cho chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải trong việc chiếm đất của gia đình tôi.
- Nội dung chính
của việc khiếu nại là đòi trả lại đất thu mà tôi cho rằng đó là thu trái phép.
Tuy số liệu phó chánh thanh tra không theo đơn để xác minh cụ thể, nhưng phó
chánh thanh tra cũng đã công nhận việc thu đất trong sổ thuế nông nghiệp, thu
đất khai hoang là có thực. Vậy tại sao quyết định không trả lại đất cuãng không
bồi thường.
+ Với việc quyết định không đề cập đến việc đòi lại
đất là đúng hay sai thì mặc nhiên quyết định không đúng thẩm quyền còn vi phạm
về quyền sử dụng đất của gia đình tôi mà pháp luật quy định và việc Nhà nước
khuyến khích khai hoang cải tạo đất.
- Từ thực tế nêu
trên tôi hoàn toàn không đồng ý với quyết định mà cho rằng, ngoài việc Phó
chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia bao che cho chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt
quyền sử dụng đất thì quyết định số 01 QĐ/TT TG ngày 26/9/1996 của phó chánh
thanh tra huyện Tĩnh Gia là quyết định trái thẩm quyền, không có hiệu hực pháp
luật. và vi phạm quyền tài sản của người sử dụng đất. Công nhân có đất mà không
được sử dụng đất cũng không được bồi thường.
+ Xin đề nghị
chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia hủy bỏ quyết định số 01 QĐ/TT TG ngày 26/9/1996
của phó chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia.
+ Xin đề nghi
Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đúng thẩm
quyền.
+ Xin căn cứ diện
tích trong sổ thuế nông nghiệp, diện tích hiện trạng sử dụng đất của gia đình
tôi tại thời điểm bị chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải thu đất, để trả lại đất hoặc bồi
thường cho gia đình tôi.
+ Xin căn cứ số
cây chặt thực tế theo biên bản để áp giá bồi thường theo quy định của nhà nước.
+ Xin xác định
hiện trạng con đường mở rộng 6m để cấp bù 428 m2 đất vườn cho gia đình tôi.
+ Xin làm rõ đối
tượng chiếm 6 sào đất thầu nuôi tôm của gia đình tôi và xử lý đối tượng chiếm
đất theo quy định của Pháp luật. Thay mặt gia đình tôi xin chân thành cảm ơn.
(Ngày 08/8/1997 sao lưu theo bản gốc đơn viết tay, tại
số nhà 166 Lê Hoàn)
Tĩnh Gia ngày 10 tháng 10 năm 1996
NGƯỜI LÀM ĐƠN
(đã
ký và ghi rõ họ tên)
Lê Văn Huy
- DO CHỦ TỊCH UBND HUYỆN KHÔNG GIẢI QUYẾT, GIA ĐÌNH PHẢI GỬI ĐƠN ĐẾN UBND TỈNH THANH HÓA.
- NĂM 2010 UBND TỈNH THANH HÓA THỤ LÝ ĐƠN NHƯNG KHÔNG GIẢI QUYẾT.

NĂM 2010 UBND TỈNH THANH HÓA BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRÙNG TRÊN ĐẤT KHIẾU KIỆN.
- NĂM 2013 GIA ĐÌNH MỚI BIẾT QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG CỦA CHỦ TỊCH UBND TỈNH THANH HÓA, LÀM ĐƠN KHỞI KIỆN THÌ BỊ TÒA ÁN TỈNH THANH HÓA TRẢ LẠI ĐƠN.
- NĂM 2013 GIA ĐÌNH KHÁNG CÁO VỀ VIỆC TRẢ LẠI ĐƠN ĐẾN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, TÒA ÁN NDTC CÓ VĂN BẢN CHỈ ĐẠO TÒA THANH HÓA GIẢI QUYẾT NHƯNG TÒA ÁN THANH HÓA KHÔNG GIẢI QUYẾT.
- NĂM 2016 UBND XÃ TĨNH HẢI TỔ CHỨC HỘI NGHỊ GIẢI QUYẾT ĐƠN, CÁC CỰU CÁN BỘ XÃ, THÔN THỜI KỲ 1993-1995 ĐỀU XÁC NHẬN ĐẤT CỒN ĐỒI CHO GIA ĐÌNH NHƯNG SAU ĐÓ UBND XÃ KHÔNG GIẢI QUYẾT.
- NGÀY 09/9/2016 CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA VÀ CHỦ TỊCH UBND XÃ TĨNH HẢI GIAO KẾT HỢP CHỈ ĐẠO LÀM HỒ SƠ GIẢ (VIDEO BẰNG CHỨNG)
Đây là video Nguyễn Thị Nga, chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải trả lời phóng viên về việc đất giao thầu sau đó bỏ hoang nhiều năm, nhưng lại làm hồ sơ bồi thường đất dự án canh tác hiệu quả
- NGÀY 08/12/2016 CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG TRÊN ĐẤT CỦA GIA ĐÌNH.
- NGÀY 28/12/2016 CHÚNG TÔI LÀM ĐƠN KHỞI KIỆN:
ĐƠN KHỞI KIỆN NGÀY 28/12/2016 DUY NHẤT CÓ 01 YÊU CẦU, THẨM PHÁN NGUYỄN THỊ CHINH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA KHÔNG TRẢ LẠI ĐƠN CÔNG TY KHỞI KIỆN, KHÔNG BÁC BỎ. KHÔNG HƯỚNG DẪN BẰNG VĂN BẢN, NÓI BẰNG MIỆNG YÊU CẦU CHÚNG TÔI LÀM ĐƠN LẦN THỨ 2 NHƯ SAU:
- NĂM 2010 UBND TỈNH THANH HÓA THỤ LÝ ĐƠN NHƯNG KHÔNG GIẢI QUYẾT.
Uû ban nh©n d©n céng
hoµ x· héi chñ nghÜa viÖt nam
tØnh thanh
ho¸ §éc lËp - Tù do - H¹nh phóc


Sè: 5632 /UBND-§MDN Thanh Ho¸, ngµy 14
th¸ng 10 n¨m 2010
V/v Tham mưu giải quyết đơn
đề nghị của ông Lê Văn Huy.
Kính
gửi: Thanh tra Tỉnh Thanh Hoá.
UBND tỉnh Thanh Hoá nhận được Đơn xin đề nghị ký ngày
01/10/2010 của ông Lê Văn Huy (uỷ quyền cho con trai là ông Lê Minh Vũ), thôn
Liên Vinh, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia. Nội dung Đơn xin đề nghị liên quan đến
việc thanh tra, giải quyết hỗ trợ cho các hộ dân có đất nuôi trồng thuỷ sản ở xứ
đồng đê Đạo, đê Làng xã Tĩnh Hải.
Chủ tịch UBND tỉnh có ý kiến
như sau:
Giao Thanh tra Tỉnh xem xét Đơn xin đề nghị của ông Lê Văn
Huy (có Đơn xin đề nghị gửi kèm theo Công văn này), đề xuất hướng giải quyết, báo
cáo UBND tỉnh.
Văn phòng UBND tỉnh thông báo ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch
UBND tỉnh để Thanh tra Tỉnh thực hiện./.
Nơi nhận:
TL.
CHỦ TỊCH
- Như trên (để thực hiện);
KT. CHÁNH VĂN
PHÒNG
- Chủ tịch,
CVP UBND tỉnh (để b/c); PHÓ CHÁNH VĂN
PHÒNG
- Lưu: VT,
ĐMDN.
(Thang0852010)
Đỗ Quốc Cảnh (®· ký)
NĂM 2010 UBND TỈNH THANH HÓA BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRÙNG TRÊN ĐẤT KHIẾU KIỆN.
- NĂM 2013 GIA ĐÌNH MỚI BIẾT QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG CỦA CHỦ TỊCH UBND TỈNH THANH HÓA, LÀM ĐƠN KHỞI KIỆN THÌ BỊ TÒA ÁN TỈNH THANH HÓA TRẢ LẠI ĐƠN.
- NĂM 2013 GIA ĐÌNH KHÁNG CÁO VỀ VIỆC TRẢ LẠI ĐƠN ĐẾN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, TÒA ÁN NDTC CÓ VĂN BẢN CHỈ ĐẠO TÒA THANH HÓA GIẢI QUYẾT NHƯNG TÒA ÁN THANH HÓA KHÔNG GIẢI QUYẾT.
- NĂM 2016 UBND XÃ TĨNH HẢI TỔ CHỨC HỘI NGHỊ GIẢI QUYẾT ĐƠN, CÁC CỰU CÁN BỘ XÃ, THÔN THỜI KỲ 1993-1995 ĐỀU XÁC NHẬN ĐẤT CỒN ĐỒI CHO GIA ĐÌNH NHƯNG SAU ĐÓ UBND XÃ KHÔNG GIẢI QUYẾT.
- NGÀY 09/9/2016 CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA VÀ CHỦ TỊCH UBND XÃ TĨNH HẢI GIAO KẾT HỢP CHỈ ĐẠO LÀM HỒ SƠ GIẢ (VIDEO BẰNG CHỨNG)
- NGÀY 08/12/2016 CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG TRÊN ĐẤT CỦA GIA ĐÌNH.
- NGÀY 28/12/2016 CHÚNG TÔI LÀM ĐƠN KHỞI KIỆN:
CÔNG TY GIÁO DỤC
VŨ TẤN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
KKT Nghi Sơn Thanh Hóa Độc Lập – Tự
Do – Hạnh Phúc

Số:
1-28122016/CTGDVT-KNQĐ Tĩnh Gia ngày 28 tháng 12 năm 2016
ĐƠN KHỞI KIỆN QUYẾT ĐỊNH
Kính
gửi: Tòa Án Nhân Dân Tỉnh Thanh Hóa
- Người khởi kiện: Hội viên hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa - CÔNG TY GIÁO DỤC VŨ TẤN, có mã số doanh
nghiệp: 2801046225, do Sở kế hoạch
và Đầu tư tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 21/3/2006
- Trụ sở: Đô thị
số 3, Khu kinh tế Nghi Sơn, Thanh Hóa.
- Người đại diện:
Ông Lê Minh Vũ, có số chứng minh thư
Nhân Dân: 171377144 do Công an tỉnh
Thanh Hóa cấp
- Chức vụ: Giám
đốc
- Là người Đại diện theo ủy
quyền của ông Lê Văn Huy, sinh năm 1925, thöôøng truù: Thôn
Liên Vinh, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Người bị kiện: Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia
Người đại diện
theo pháp luật (là người ra quyết định trái pháp luật): Nguyễn Tiến Dũng
- Trụ sở, nơi
làm việc: UBND huyện Tĩnh Gia, tiểu khu 1, thị trấn Tĩnh Gia.
NỘI DUNG KHỞI
KIỆN
Cố chủ tịch UBND
xã Tĩnh Hải, Lê Thánh Sắc và cán bộ địa chính Lê Ngọc Dàu cầm đầu chiếm đoạt
đất của gia đình ông Lê Văn Huy (sau đây gọi là: chúng tôi), năm 1993-1994 chiếm
đất tại đê Hoàng Hóa, đê Đạo, đê Làng; năm 1995 chiếm đất tại Cồn, Đồi để chia
nhau, số đất còn lại lấy danh nghĩa UBND giao thầu lấy tiền chia nhau, chặt cây
phá vườn lấy đất làm đường giao thông trong xóm rộng 6 mét. Giấy tờ chứng minh về
tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại có: Sổ thuế nông nghiệp; xác nhận của chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải ngày 21/8/1994; Biên bản nghiệm thu cây màu thiệt hại
ngày 15/1/1995 và 17/1/1995.
- Theo đơn khiếu
nại, ngày 26/9/1996 phó chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành quyết định số
01/QĐ TTTG giải quyết khiếu nại, ngay khi nhận quyết định chúng tôi không đồng
ý với quyết định trái thẩm quyền. Ngày 10/10/1996 chúng tôi đã khiếu nại quyết
định đến chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, nhưng chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia không
giải quyết nên chúng tôi phải gửi đơn đến UBND tỉnh Thanh Hóa.
- Ngày
14/10/2010 Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa có văn bản số 5632/UBND-ĐMDN chỉ đạo
giải quyết. Vụ việc chưa giải quyết thì ngày 20/10/2010 Chủ tịch tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số
3745/QĐ-UBND phê duyệt bồi thường cho người khác trùng trên đất của chúng tôi.
- Ngày 17/7/2013 biết quyết định số 3745/QĐ-UBND này chúng
tôi làm đơn khởi kiện. Tòa án tỉnh Thanh Hóa trả lại đơn khởi kiện, không đồng
ý chúng tôi kháng cáo đến Tòa án Nhân Dân Tối cao. Tại Công văn số 589/PC-BTK,
ngày 12/9/2013, Tòa án Nhân Dân Tối cao chỉ đạo nhưng Tòa án tỉnh Thanh Hóa vẫn
không giải quyết. Cùng đường chúng tôi phải tiếp tục gửi đơn trở lại đến các
cấp, xã, huyện, tỉnh và trung ương "kêu cứu".
- Đơn được thụ lý, tại Biên bản làm việc ngày 10/5/2016
của UBND xã Tĩnh Hải, Tại hội nghị các cựu cán bộ xã, thôn làm việc năm 1993-1995
xác nhận đất cho chúng tôi. Nhưng ông Lê Xuân Hoàn, phó chủ tịch UBND xã chủ
trì hội nghị nói: Cần phải xác minh tại thực địa và yêu cầu thư ký ghi vào biên
bản là: "Đang xem xét giải quyết", sau đó không xem xét.
- UBND tỉnh chưa
giải quyết theo chỉ đạo tại công văn số
5632/UBND-ĐMDN, ngày 14/10/2010.
- Tòa án tỉnh Thanh Hóa chưa giải quyết theo Công văn số
589/PC-BTK, ngày 12/9/2013 của Tòa án Nhân Dân Tối cao.
- UBND xã Tĩnh Hải
chưa giải quyết theo Biên bản làm việc ngày 10/5/2016
- Ngày 09/9/2016 UBND huyện Tĩnh Gia, phối hợp với UBND xã
Tĩnh Hải làm giả phương án 202/PA-HĐKK về việc có bồi thường về đất cho người khác trên đất của chúng tôi. Ngày 08/12/2016, ông Nguyễn Tiến Dũng, Chủ
tịch UBND huyện Tĩnh Gia làm giả Quyết
định số 8745/QĐ-UBND, không bồi
thường về đất, mà chỉ hỗ trợ cho người khác trùng trên đất của chúng
tôi.
- Việc khiếu kiện đã được UBND tỉnh Thanh Hóa (thụ lý năm
2010); Tòa án Nhân Dân tỉnh Thanh Hóa (thụ lý năm 2013); UBND xã Tĩnh Hải (thụ
lý năm 2016). Vụ việc chưa giải quyết mà chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia ban hành
quyết định làm đường Bắc Nam 2 trùng trên đất của chúng tôi là vi phạm Luật tố
tụng hành chính, thuộc đối tượng khởi kiện.
YÊU CẦU GIẢI QUYẾT
Kính đề nghị Tòa hành chính, Tòa án Nhân Dân tỉnh Thanh
Hóa xem xét hành vi hành chính của ông
Nguyễn Tiến Dũng, chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia trong việc: Không ban hành
quyết định giải quyết khiếu nại, đã làm giả hồ sơ ban hành quyết định trái pháp
luật trên đất đang thụ lý giải quyết khiếu nại. Để thu hồi quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016. Tôi xin cam
đoan nội dung nêu trong đơn này là thực tế, nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm
trước pháp luật./.
ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
GIÁM ĐỐC
Lê Minh Vũ
ĐƠN KHỞI KIỆN NGÀY 28/12/2016 DUY NHẤT CÓ 01 YÊU CẦU, THẨM PHÁN NGUYỄN THỊ CHINH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA KHÔNG TRẢ LẠI ĐƠN CÔNG TY KHỞI KIỆN, KHÔNG BÁC BỎ. KHÔNG HƯỚNG DẪN BẰNG VĂN BẢN, NÓI BẰNG MIỆNG YÊU CẦU CHÚNG TÔI LÀM ĐƠN LẦN THỨ 2 NHƯ SAU:
KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Tĩnh Gia ngày 10 tháng 4 năm 2017 |
Khởi kiện Quyết định số: 8745/QĐ-UBND, 08/12/2016
của chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia là quyết định có hành vi hành chính
Người khởi kiện:
Họ và Tên: Ông Lê Văn Huy, sinh năm 1925
Địa chỉ: Thôn Liên
Vinh, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa
Họ và tên
người nhận ủy quyền: Lê Minh Vũ (con trai của ông Huy)
Sinh trú quán tại: Thôn Liên Vinh, xã Tĩnh
Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa
Điện thoại:
02373.862.113, 0913.128.167. Email: vutan326798@gmail.com
Người bị kiện:
Chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia
Về Quyết định
hành chính số: 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016
Địa chỉ nơi
làm việc: UBND Huyện Tĩnh Gia, Tiểu khu 1, Thị trấn Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Điện
thoại 02373861002.
Người có nghĩa vụ liên quan:
- Chủ tịch
UBND xã Tĩnh Hải người có trách nhiệm về hành vi hành chính tại Biên bản làm
việc ngày 10/5/2016 của UBND xã Tĩnh
Hải
Địa chỉ nơi
làm việc: UBND xã Tĩnh Hải, thôn Thắng Hải, xã Tĩnh Hải, Huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa.
- Người làm
đất liền kề với ông Huy tại đê Hoằng Hóa; đê Đạo; đê Mới làm chứng về hiện
trạng đất sản xuất gồm: bà Lê Thị Thiết, giáp phía bắc; ông Lê Hữu Bút và ông Lê Quang Hồng, giáp phía nam.
Đồng địa
chỉ thôn Liên Vinh.
- Người làm
đất liền kề với ông Huy tại đê Làng làm chứng về hiện trạng đất sản xuất gồm: 129 hộ dân làm phía đông; khu Láng Xanh; Quan Tướng người làm chứng về hiện trạng đất sản xuất tại thời điểm UBND xã chiếm đoạt của ông Huy có danh sách kèm theo thuộc người dân đội 2 và đội 3 thôn Liên Vinh; ông Lê Quang Hồng, phía nam; bà Lê Thị Ninh; phía bắc.
Đồng địa
chỉ thôn Liên Vinh.
- Người làm
đất liền kề với ông Huy tại cồn (khu vực cồn đồi) về hiện trạng đất sản xuất gồm:
ông Lê Văn Huệ; bà Lê Thị Hẹ; ông Lê Văn Lưu; ông Lê Hữu Định và ông Lê Hữu
Chen.
Đồng địa
chỉ thôn Liên Vinh
- Lê Năng
Nguyễn, là đối tượng thuộc phía UBND xã Tĩnh Hải lấy tiền hỗ trợ trên đất thầu của ông Lê
Minh Vũ.
Đồng địa
chỉ thôn Liên Vinh
NỘI DUNG KHỞI KIỆN
- Ngày 25/9/1995, gia
đình ông Lê Văn Huy khiếu nại đến chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia về việc: UBND xã
chiếm đoạt của ông Lê Văn Huy và con trai là ông Vũ
+
Đất khai hoang tại đê Hoàng Hóa, đê Mới, đê Đạo. Diện tích là 2 héc ta
+
Đất thừa kế của gia đình có trong sổ thuế nông nghiệp tại đê Làng. Diện tích là
67 thước
+
Đất khai hoang tại đê Làng (mở rộng diện tích xung quanh ruộng 67 thước). Diện
tích là 1 héc ta
-
Cùng trong đơn 25/9/1995 của ông Huy, có khiếu nại yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải. Trả
cho con trai ông Huy là anh: Lê Văn Vũ diện tích là 6 sào đất
thầu nuôi tôm. Nội dung đơn ghi rõ trường hợp trả lại đất cho ông Huy thì trả
lại 400.000 đồng cho anh Vũ bởi, vì anh Vũ được UBND xã giao đất thầu chồng
trên đất của ông Huy.
- Ngày 26/9/1996, phó
chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số:
01/QĐ-TTTG có nội dung sơ sài không đúng nội dung
đơn. Mặt khác căn cứ Điều 10 Pháp lệnh khiếu nại tố cáo thì việc thanh tra giải
quyết khiếu nại là trái Pháp luật, đó là lý do mà ngày 10/10/1996 gia đình tôi
gửi đơn tiếp đến chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, yêu cầu ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại. Nhưng cho đến nay chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia chưa ban hành
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Mặc dù các cấp tỉnh và trung ương có
rất nhiều phiếu chuyển và công văn yêu cầu chủ tịch UBND huyên Tĩnh Gia giải
quyết.
-
Do dự án đường Bắc Nam 2 Khu kinh tế Nghi Sơn, đi qua khu đất của ông Huy và
ông Vũ. Theo đơn khiếu nại ngày 25/9/1995 trên các đê Làng, đê Đạo, đê Mới và
đê Hoằng hóa.
-
Ngày 08/12/2016 chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia ban hành quyết định số:
8745/QĐ-UBND trùng trên diện tích đất của ông Huy mà UBND xã giao cho các
gia đình: Ông Lê Văn Sắt; Lê Năng Sen; Lê Văn Hùng; Lê Thị Nhung; Lê Văn
Nguyện; Lê Năng Nguyễn; Lê Văn Huấn; Lê Ngọc Trung nêu chi tiết trong bản Tổng
hợp kinh phí bồi thường, hỗ trợ - GPMB đính kèm quyết định số 8745/QĐ-UBND.
- Căn cứ Điều 10, Pháp lệnh khiếu nại tố cáo
ngày 07/5/1991 thì quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của phó chánh
thanh tra huyện Tĩnh Gia là quyết định trái pháp luật và có nội dung sơ sài,
thiếu nội dung đơn khiếu nại.
-
Căn cứ Luật khiếu nại năm 2011, việc chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia chưa
ban hành quyết định giải quyết lần đầu đối với đơn khiếu nại ngày 25/9/1995. Thì
việc chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia ban hành quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 trùng trên vị trí đất đang có đơn khiếu nại tranh chấp với UBND xã
Tĩnh Hải cũng là quyết định trái pháp luật. Được khởi kiện theo Luật tố tụng
hành chính, đó là lý do ông Huy và ông Vũ nộp đơn khởi kiện. Chi tiết về khu
đất của ông Huy và ông Vũ mà UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt năm 1993 và năm 1994
cho (bán) và giao thầu như sau:
1. Đất
khai hoang (đơn gửi huyện lần đầu 25/9/1995)
a. Đất
khai hoang 2 héc ta của ông Huy tại đê Hoằng Hóa, đê
Mới và đê Đạo ông Huy khai hoang từ năm 1977. Canh tác ổng định, năm 1993 thì
UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Hiện trạng sử dụng đất
tại thời điểm UBND xã chiếm đoạt: Phía đông giáp bờ đê làng (450m); Phía tây
giáp hón sâu mà gia đình tôi thả chà nuôi cá, dọc theo đê ngăn mặn sông bạng;
Phía bắc giáp ruộng của bà Lê Thị Thiết (người cùng xóm); Phía nam giáp ruộng
của ông Lê Hữu Bút (người cùng thôn) và bà Lê Thị Tược, có cháu là Lê Quang
Hồng (người cùng thôn).
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Đơn xin nhận thầu đê đề
ngày 21/8/1994, có ghi chung “3 héc ta đất khai hoang” chủ tịch UBND xã Tĩnh
Hải có xác nhận, ký tên đóng dấu ngày 28/8/1994 ngay trên đơn.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Quyết định 01/QĐ-TTTG
ngày 26/9/1996, căn cứ theo đơn xác minh: “có thu đất khai hoang của gia đình
ông Huy”
b. Đất
khai hoang 1 héc ta của ông Huy tại đê Làng. Đất đang
canh tác ổn định, năm 1994, UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt giao thầu có thu tiền,
thời hạn 20 năm từ 1994 đến 2014 (nay quá hạn nhà nước không thu hồi để trả cho
dân).
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Hiện trạng sử dụng đất
tại thời điểm thu: Phía đông giáp ruộng của đội 2 và đội 3 thôn Liên Vinh, đất nhà
nước giao cho các hộ dân theo khoán 10; Phía tây giáp bờ đê Làng 260 mét; Phía
bắc giáp đất nhà nước giao cho các hộ thờ cúng Liệt sỹ là ông Lê Văn Dẩy (ông
Sạy) và ông Lê Văn Sắt (ông Chuyền); Phía nam (góc phía đông) giáp ruộng của
ông Lê Văn Huấn và ông Lê Hải hoạt; (góc phía tây nam) giáp đường trục đi từ
trụ sở thôn xuống.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Đơn xin nhận thầu đê đề
ngày 21/8/1994, có ghi chung “ba héc ta đất khai hoang” chủ tịch UBND xã Tĩnh
Hải có xác nhận ký tên đóng dấu ngày 28/8/1994.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Quyết định 01/QĐ-TTTG
ngày 26/9/1996, căn cứ theo đơn xác minh: “có thu đất khai hoang của gia đình
ông Huy”
2. Đất thừa kế 67 thước của ông Huy diện tích này nằm trong lõi khu đất khai
hoang của ông Huy tại đê
Làng, bởi 1 héc ta đất khai hoang tại đê Làng là diện tích mở rộng từ diện tích
67 thước đất thừa kế.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Đất có ghi trong sổ
thuế nông nghiệp của gia đình ông Huy ghi tại thứ tự thứ 10: Hón
Tre, diện tích là 67 thước, đóng thuế đến tháng 10/1992. Số đất này là của cụ
Lê Văn Ngại, bố đẻ ông Lê Văn Huy cho ông Lê Văn Huy làm từ năm 1955. Năm 1994
UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt giao thầu có thu tiền, thời hạn giao thầu là 20 năm
(1994-2014). Nay quá hạn UBND xã không thanh lý hợp đồng để trả đất cho gia
đình tôi.
3. Đất thầu nuôi tôm 6 sào của ông Vũ (đơn gửi huyện lần đầu 25/9/1995)
* Chứng minh về nguồn gốc đất: Ngày 21/8/1994 ông Vũ làm đơn
xin thầu lại ba héc ta đất của gia đình mà UBND xã đã chiếm đoạt. Thế nhưng
ngày 28/8/1994 chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt ngay trên đơn cho thầu lại 6 sào
để nuôi tôm trong phạm vi đất khai hoang. Số tiền tôi đã nộp theo quy định là
400.000đ.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Tại quyết định số
01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 công nhận đất thầu nuôi tôm bị người khác chiếm là
2355m2. Trong giấy giao đất là 6 sào (3000m2), nhưng thanh tra huyện lại yêu
cầu UBND xã trả lại tiền thầu. Đó là diện tích mà vừa qua (9/3/2017) Lê Năng
Nguyễn nhận tiền hỗ trợ tại UBND xã Tĩnh Hải.
4. Đòi đất vườn của ông Huy (đơn gửi huyện lần đầu 25/9/1995)
* Liên tục 3 ngày 15; 16
và 17/1/1995 chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải cầm đầu đoàn người đến cưỡng chế chặt
cây trong vườn để chiếm đoạt đất làm đường điện và đường giao thông rộng 6 mét.
Khi cán bộ lập biên bản, gia đình tôi yêu cầu đo diện tích đất lấy mở đường.
Nhưng ông Lê Thánh Sắc chủ tịch UBND xã lúc đó nói rằng: “chỉ lập biên bản đền
cây, còn đất của nhà nước, nhà nước lấy. Cả nước đều thế, không riêng gì nhà
ông”. Đó là lý do trong biên bản nghiệm thu cây màu thiệt hại ngày 15 và
17/1/1995 không ghi diện tích đất.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Để chứng cứ về việc
UBND xã chiếm đoạt đất vườn, ngày 26/10/1995, gia đình tôi làm đơn “Đơn xin
chứng thực xây tường rào đất vườn đất ở”
Mục đích nói rõ về việc UBND xã chặt cây lấy đất mở đường rộng 6 mét và việc
gia đình tôi thực hiện xây mốc giới nghiêm túc theo quy định của UBND xã, được
các cấp thôn và xã xác nhận chi tiết. Tổng diện tích đất vườn lấy làm đường là
420m2, trong đó chiều dài đông tây là 95m; chiều sâu bắc nam là 4,5m. Như vậy
Biên bản ngày 15/1/1995; biên bản ngày 17/1/1995 và đơn xin chứng thực ngày
26/10/1995 là căn cứ về việc UBND xã cưỡng thu 420 m2 đất vườn của gia đình ông
Huy để làm đường rộng 6 mét.
5. Đòi bồi thường cây chặt làm đường của ông Huy
* Chứng minh về số cây bị chặt để lấy đất Căn cứ biên
bản nghiệm thu cây màu thiệt hại đề ngày 15/1/1995 và 17/1/1995, thanh tra
huyện Tĩnh Gia xác minh tại quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996: “việc chặt
cây là có thật”.
Tổng số các loại cây mà UBND xã Tĩnh Hải chặt
lấy đất làm đường là: 139 cây tre; 22
cây trúc; 18 cây kè; 02 cây dừa; 02 cây nhãn; 04 cây xoan; 02 cây bưởi; 01 cây mít; 02 khóm mây.
6. Đòi đất Cồn Đồi của ông Huy (đơn gửi huyện lần đầu 25/12/1995)
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Khu đất cồn là 225m2,
đám đất đồi là 600m2 có kích thước các cạnh như sau:
- Cạnh phía đông 37,5m,
giáp ruộng ông Lê Hữu Chen là 37,5m
- Cạnh phía tây giáp bờ
đê Làng và ruộng bà Lê Thị Hẹ là 37.5m
- Cạnh phía nam giáp
ruộng ông Lê Văn Lưu và bà Lê Thị Hẹ là 30m
- Cạnh phía bắc giáp
ruộng ông Lê Hữu Huệ là 30m.
Khu đất này bỏ hoang là
do chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải Trần Xuân Du chuyển đổi đất cấy lúa sang nuôi
trồng thủy sản ngay trên sổ đỏ cho các hộ liền kề. Không đắp bờ bao nuôi tôm
làm đất bị ngập mặn từ năm 1995. Ông huy khiếu nại tại đơn có dấu bưu điện đề
ngày 23/7/2008 nhưng không được giải quyết.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Hiện trạng đất gia đình
đang sản suất thì bị UBND xã Tĩnh Hải đổ nước mặn vào nuôi tôm không đắp bờ
ngăn mặn. Được làm chứng bởi các hộ làm ruộng liền kề kể trên, một phần diện cồ
cao vẫn còn lại gia đình quản lý sử dụng không ai tranh chấp.
+ Tại biên bản ngày
10/5/2016. Các thành viên hội nghị đều khẳng định sự thật: Khu đất Cồn, Đồi của
ông Huy vào thời điểm UBND xã đổ nước mặn vào có hình dạng chữ “L”. Khi xác
định về diện tích phó chủ tịch xã Lê Xuân Hoàn nói rằng “phải đến khu đất đo
thực tế”. Ông Hoàn bảo thư ký viết vào biên bản: “Diện tích khai hoang cồn đồi
đang xem xét giải quyết”. Như vậy hiện trạng sử dụng đất cồn đồi đã được xác
định tại hội nghị, phần diện tích sẽ xác minh sau. Ngày 16/3/2017 đơn vị thi
san lấp trên khu vực cồn đồi, ông Vũ gọi điện báo cáo về biệc biên bản ghi là
giải quyết sau. Tại sao khi đơn vị thi công làm trên đất lại không giải quyết,
thì ông Hoàn nói rằng: “diện tích có ít để anh nói với bà Nga chủ tịch hỗ trợ
cho” có ghi âm lời ông Hoàn phó chủ tịch UBND xã về nội dung này.
7.
Đòi đất tây
đường số 7 của ông Huy là 9 thước đất nhà nước giao
cho ông Huy theo khoán 10. Phía đông giáp đường số 7; phía tây giáp đồng chon;
phía nam giáp đất ông Lê Ngọc Khoa; phía bắc giáp đất bà Lê Thị Vời.
+ Năm 1993 UBND xã Tĩnh
Hải cưỡng thu đất hai bên Đường 7, để tự chia cho nhau và bán đất ở trong đó có
9 thước đất của ông Huy. Bị dân tố giác, năm 2005 tỉnh chỉ đạo kiểm tra phát
hiện. Xã giao bán 23 xuất đất ở phía tây đường 7 (đoạn giáp xã Hải Bình). Mặc
dù tỉnh đã cấm thế nhưng cho đến nay Chủ tịch UBND xã vẫn tiếp tục bán nhiều
chục xuất đất ở trái thẩm quyền. Căn cứ thông báo số 134/TB-UBND, ngày
03/7/2013, chủ tịch xã ra thông báo lấy khu đất trong đó có đất của ông Huy để
bán. Tôi đã làm đơn khiếu nại đến chủ tịch UBND xã, nên chủ tịch xã tránh vị
trí đất của ông Huy, tiếp tục bán đất bên cạnh. Hiện nay (2017) khu đất của ông
Huy UBND xã đang quản lý. Cuối năm 2016 UBND xã cho bà Lê Thị Tư trồng cây sanh
thuộc nhóm cây cổ thụ trên đất và che chắn kín để xây dựng bên trong, mục đích
khi tháo vách che đưa sự việc xây dựng vào sự đã rồi để chờ thời cơ làm sổ đỏ
như việc làm thường xuyên của UBND xã. Ngày 21/02/2017 tôi làm đơn tố cáo, chủ
tịch xã có ký nhận đơn. Nhưng đến nay vẫn không giải quyết.
*
Chứng minh về nguồn gốc đất: Sổ nông nghiệp ghi tại
thứ tự 8 “Tây đường 7”, diện tích 9 thước. Đóng thuế đến tháng 10 năm 1992.
- Ngày biết được quyết định hành chính
Ngày 22 tháng 12 năm 2016, tôi biết được Quyết định số: 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của chủ tịch UBND huyện
Tĩnh Gia từ một hộ gia đình có tên trong danh sách được bồi thường hỗ trợ. Tôi
cho rằng quyết định đó là trái pháp luật mà Luật tố tụng hành chính năm 2011
quy định được khởi kiện nên tôi đã mượn đưa đi photo để làm bằng chứng khởi
kiện
- Nội dung giải
quyết khiếu nại của Phó thanh tra huyện Tĩnh Gia là trái Pháp luật căn cứ:
+ Khoản 2; Điều 10; Pháp
lệnh của Hội Đồng Nhà Nước số 53-LCT/HDDNN8, ngày 07/5/1991 quy định về khiếu
nại, tố cáo của công dân.
+ Thông tư
1118/TT-TTNN-1996 hướng dẫn giải quyết khiếu nại, ban hành ngày 20/7/1996
+ Nghị định số 38/HĐBT
về việc thi hành pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày 28/01/1992.
+ Theo quy định tại các Điều 27, Điều 28, Điều 29 của Nghị
định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính
phủ quy định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật về đình chỉ hoặc
bãi bỏ một phần quyết định trái pháp luật, được áp dụng.
-
Căn cứ đơn khiếu nại đề ngày 25/9/1995 của ông Huy và ông Vũ thì việc chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia không ban hành quyết định giải quyết lần đầu. Mà ban hành
quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 trùng trên đất tranh chấp thì quyết
định đó là quyết định trái pháp luật, bị khởi kiện. Mặt khác Điều 296 Bộ
luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định về Tội ra quyết định trái
Pháp luật cũng được áp dụng.
Các yêu cầu đề nghị Tòa án xem xét
giải quyết
1. Tuyên bố quyết định số:
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia là quyết định
trái pháp luật
2. Đề nghị bảo
lưu một phần nội dung xác minh của thanh tra huyện trong “quyết định 01/QĐ-TTTG”
ngày 26/9/1996 bởi phần xác minh là trách nhiệm của thanh tra bảo lưu giữ làm
bằng chứng là phù hợp với quy định của Pháp luật.
3. Tuyên bố
định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của phó chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành
giải quyết khiếu nại là trái pháp luật
4. Do UBND
huyện Tĩnh Gia là bị đơn khởi kiện trong vụ án hành chính, nên việc UBND huyện
Tĩnh Gia tiếp tục giải quyết khiếu nại là không khách quan. Nên gia đình tôi
xin đề nghị Tòa án, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ cụ thể để ban hành Quyết định
giải quyết quyền lợi cho ông Lê Văn Huy và ông Lê Minh Vũ theo đơn khiếu nại
ngày 25/9/1995 đã được trình bày chi tiết tại 7 mục (nêu trên) liệt kê trong
đơn khởi kiện này.
+ Trường hợp 4
yêu cầu đề nghị Tòa án xem xét giải quyết (nêu trên), phần nào không thuộc chức
năng giải quyết của Tòa án hành chính thì xin được hướng dẫn người khởi kiện
nộp hồ sơ cho cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết.
Những
văn bản quy phạm pháp luật giao nộp kèm theo đơn khởi kiện
1. Biên bản Giao nhận
tài liệu, chứng cứ (lần 1) đề ngày 12/4/2017
- Người nhận là: Cán bộ
Tòa án Lê Thị Hoa
2. Biên bản giao nhận
tài liệu, chứng cứ lần 2
- Xác nhận của Thẩm phán Nguyễn Thị Chinh
3.
ViDeo chứng cứ đăng tải công khai trên YouTube với tên: “Chứng cứ khởi kiện
quyết định hành chính chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, phần 1”. Phóng sự của Báo Diễn đàn Doanh đăng bài “Thanh
Hóa Vụ khiếu nại 20 năm có bỏ hoang như đất”. Xin nhập đúng tên vào YouTube
trên Google để xem. Bản quyền Video này thuộc về “Lê Minh Vũ Thanh Hóa”
- Đối với các hộ được hỗ trợ trong quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 8/12/2016
không phải đối tượng tranh chấp trực tiếp với gia đình tôi nên tôi không có
quyền đưa vào danh sách liên quan tranh chấp để xác minh làm rõ nguồn gốc đất
của gia đình tôi.
- Do UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất của gia đình tôi năm 1993; 1994 và
1995. Lúc đó chúa có số bản đồ, số thửa nên gia đình tôi không có trách nhiệm
cung cấp số thửa, số bản đồ. Trách nhiệm đó thuộc về UBND xã Tĩnh Hải và UBND
huyên Tĩnh Gia.
+ Gia đình và cá nhân tôi xin cam đoan không khiếu nại đến người ban hành quyết định hành vi hành chính và thủ trưởng quản lý trực tiếp của người ban hành quyết định hành chính trái pháp luật./.
NGƯỜI NHẬN ỦY QUYỀN
ĐẠI DIỆN GIẢI QUYẾT
Lê Minh Vũ
CHÚNG TÔI SẼ TIẾP TỤC THÔNG TIN VỀ VIỆC CHỦ TỊCH UBND XÃ TĨNH HẢI, CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA LÀM HỒ SƠ, QUYẾT ĐỊNH GIẢ VÀ CÁCH XỬ LÝ TIẾP THEO CỦA THẨM PHÁN NGUYỄN THỊ CHINH, TÒA ÁN TỈNH THANH HÓA
TIN ĐỘNG TRỜI VIỆT NAM
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
TẠI PHIÊN TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
TRƯỚC VIỆN KIỂM SÁT TỈNH THANH HÓA VÀ CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
TÔI TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ ĐỀ NGHỊ KHỞI TỐ NGUYỄN TIẾN DŨNG, CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA; NGUYỄN THỊ NGA, CHỦ TỊCH UBND XÃ TĨNH HẢI NHƯNG TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRẢ LỜI; "KHÔNG THUỘC TRÁCH NHIỆM"
TÔI PHÂN VÂN MÃI VÀ ĐẶT CÂU HỎI: TẠI SAO VKS VÀ TÒA ÁN CÁC CẤP CHẤP NHẬN PHẠM TỘI, XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP, ĐỘNG CƠ CÓ PHẢI DO NHẬN HỐI LỘ?!
ĐẾN BÂY GIỜ TÔI MỚI NGHĨ RA: CÁC QUYẾT ĐỊNH KHÔNG ĐÚNG, KHÔNG THÀNH MÀ TÔI KHIẾU KIỆN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY. ĐỐI VỚI CẤP TỈNH(TẠI THỜI ĐIỂM KHIẾU KIỆN, THỜI ĐIỂM HÀNH VI) CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ÔNG MAI VĂN NINH (cán bộ trung ương) - ÔNG TRỊNH VĂN CHIẾN (ủy viên trung ương đảng) - ÔNG LÊ ĐÌNH THỌ (thứ trưởng bộ giao thông vận tải) - ÔNG LÊ ĐÌNH XỨNG (chủ tịch ubnd tỉnh Thanh Hóa). ĐỐI VỚI CẤP HUYỆN (TẠI THỜI ĐIỂM KHIẾU KIỆN, THỜI ĐIỂM HÀNH VI) CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI CỦA ÔNG LÊ MINH THÔNG (đại biểu quốc hội) - NGUYỄN TIẾN DŨNG (chủ tịch ubnd huyện Tĩnh Gia) LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ QUAN HỆ RỘNG, TẦM ẢNH HƯỞNG RẤT LỚN. Còn đối với kẻ bàn đạp phạm tội là trưởng thôn, tư pháp và chủ tịch xã lại là người lắm tiền lo lót. BIẾT RẰNG RẤT KHÓ KHĂN NHƯNG TÔI VẪN LUÔN LẠC QUAN, KIÊN CƯỜNG ĐẤU TRANH ĐÒI TÀI SẢN VÀ LÀM RÕ ĐỒNG BỌN PHÁ HOẠI XÃ HỘI ĐƯỜNG LỐI CHỦ NGHĨA CỦA VIỆT NAM!
ĐƠN KHÁNG CÁO BẢN ÁN SƠ THẨM, TÒA ÁN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI XỬ PHÚC THẨM NGÀY 24/5/2018 ĐẾN NAY CHƯA GIAO BẢN ÁN
Tại BL109 và 119 là các quyết định GQKN đều khẳng định 8 hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở nhưng ngày 20/6/2016 UBND huyện Tĩnh Gia đã làm giả hồ sơ chỉnh lý tách thửa không có căn cứ, sai phạm này không được đối chất làm rõ tại tòa.
Căn cứ tình hình sử dụng đất nêu trên (giải trình chi tiết 8), Quyết định Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia giải quyết khiếu nại ngày 20/1/2010 (BL 105), Quyết định 565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 (BL117) và Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải Nguyễn Thị Nga phát biểu trên: Phóng sự truyền hình Báo Diễn đàn Doanh nghiệp (chứng cứ có số thứ tự 34 đơn khởi kiện ngày 10/4/2017). rõ ràng trích lục chỉnh lý số 34/TLB do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất lập ngày 20/6/2016 lập không có căn cứ (làm giả hồ sơ). UBND huyện Tĩnh Gia căn cứ hồ sơ làm giả này, tiếp tục làm giả hiện trạng sử dụng đất về vật kiến trúc, nhà, hoa màu, sản lượng cá tôm để bồi thường hỗ trợ trên đất hoang nên: Ngoài việc làm chấm dứt quyền sử dụng đất của gia đình tôi thì Quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 còn vi phạm về việc làm giả chủ sử dụng đất qua các thời kỳ, làm giả hồ sơ bồi thường hỗ trợ trên đất hoang, làm giả sản lượng tôm cá (BL135). Làm giả hồ sơ bồi thường về đất giữa BL2 không bồi thường về đất cho 8 hộ trùng nhưng BL153 có bồi thường về đất cho 8 hộ trùng trên đất gia đình tôi.
Theo quyết định 8745 không bồi thường về đất cho 8 hộ nhưng phương án bồi thường tại BL153 có bồi thường về đất cho 8 hộ, HĐXX không đánh giá chứng cứ nên tình tiết phạm tội quan trọng này không được làm rõ.
- Về đất Tây Đường 7 của gia đình tôi, UBND xã Tĩnh Hải không giao nộp mục kê bản đồ 299 năm 1987. BL72, 92 và 102 bản đồ 1998 thể hiện đo bao nguyên thửa đất canh tác, không có sổ mục kê. BL84 bản đồ 2011 đất canh tác đường 7 đã bị tách thành nhiều thửa đất ở, không có sổ mục kê. Riêng thửa đất của gia đình tôi tranh chấp quyết liệt với UBND xã nên đo bao, chủ sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải và thôn Liên Vinh là trái pháp luật. Năm 2017 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất UBND huyện Tĩnh Gia cung cấp bản đồ và mục kê thì thửa đất của gia đình tôi đã bị tách thành 2 thửa, nhưng không ghi tên chủ sử dụng đất trong khi Sổ thuế quy định về đất quy chủ cho nông hộ thì ghi tên ông Lê Văn Huy.
- Đất Cồn Đồi BL315 bản đồ 299 năm 1987 UBND xã Tĩnh Hải giao nộp (không có sổ mục kê) thể hiện rõ về hình dạng (chữ L) thửa đất của gia đình tôi như mô tả trong đơn khiếu kiện, Đồi thửa 42 diện tích 430m2, thửa Cồn và diện tích trên bản đồ mờ ghi không rõ. Thửa giáp gianh với đất bà Hẹ phía nam đo bao do không xác định chủ sử dụng đất. BL 326 bản đồ năm 1998 đất Cồn, Đồi đối chiếu với sơ đồ mà bà hẹ và ông Huệ ký mốc giới giáp gianh đất của bà Hẹ và ông Huệ thì đất Cồn, Đồi là thửa 214 và thửa 215. BL329 bản đồ UBND xã Tĩnh Hải làm giả năm 2016, căn cứ Biên bản ngày 10/5/2016 thì đất Cồn bị lấn chiếm, đất Đồi chỉ còn 136,9 m2. thửa giáp gianh phía nam đo bao năm 1998 bị chia thành nhiều thửa cho nhiều người không có đất.
4. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Theo đơn khởi kiện ngày 28/12/2016 tôi không khởi kiện quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996, trong hướng dẫn sửa đơn Tòa án định hướng cho tôi yêu cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG.
- Việc HĐXX đình chỉ giải quyết hành vi thu hồi đất trái pháp luật là không có căn cứ, vì theo đơn khởi kiện và đơn sửa đổi bổ sung khởi kiện tôi chỉ yêu cầu giải quyết hành vi của UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất. Hành vi chiếm đoạt không phải là hành vi hành chính do vậy HĐXX thay hành vi chiếm đoạt thành hành vi thu hồi để chấm dứt việc gia đình tôi đòi tài sản là không đúng. Việc tôi yêu cầu giải quyết hành vi chiếm đoạt trong vụ án hành chính là áp dụng Điều 34 và 35 Luật TTHC 2015. Việc gia đình tôi đòi tài sản là bất động sản (đất và tài sản trên đất), HĐXX đình chỉ một phần với việc đòi tài sản là không đúng.
- Tôi nêu lên quá trình khiếu nại kéo dài và giao nộp các Văn bản của tỉnh, Trung ương chỉ đạo chủ tịch UBND huyện giải quyết khiếu nại không phải là chứng minh kéo dài thời hiệu khởi kiện. Mà là chứng minh về khiếu kiện kéo dài không giải quyết, dù vậy từ năm 2013 trở về trước, tôi không khởi kiện vụ án hành chính là vì không muốn ảnh hưởng đến hình ảnh chính quyền và tránh được sự kỳ thị của cán bộ. Do khiếu nại không giải quyết đã ban hành quyết định làm đường trên đất của gia đình tôi làm chấm dứt quyền và lợi ích của gia đình tôi nên tôi phải khởi kiện.
- Hành vi thu hồi đất trái pháp luật là hành vi hành chính nhưng không có căn cứ về việc tôi khởi kiện UBND xã Tĩnh hải hành vi này. Trong đơn tôi khiếu kiện hành vi của UBND xã Tĩnh Hải là hành vi chiếm đoạt tài sản quyền sử dụng đất và tài sản găn liền trên đất là cây bị chặt phá. Căn cứ Bộ luật dân sự 2015, Điều 3 khoản 4 quy định: "Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác" do vậy việc HĐXX áp dụng thời hiệu Luật TTHC quy định đối với việc tôi đòi tài sản là sai.
+ Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 1, khoản 2 thì Quyết định 8745/QĐ-UBND của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, thời hiệu xác lập thời hiệu khởi kiện ngày 08/12/2016. Đối tượng khởi kiện này HĐXX không đánh giá chứng cứ, tài liệu và cũng không được đối chất làm rõ tại phiên tòa. Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 3, khoản 4 thì Hành vi hành chính của UBND huyện Tĩnh Gia do không giải quyết đơn khiếu nại, thời hiệu xác lập hành vi khởi kiện là ngày 28/3/2016 và 28/4/2016 . Đối tượng khởi kiện này HĐXX không xem xét tại phiên tòa. Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 3, khoản 4 thì Hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải, xét nguồn gốc đất đánh tráo khái niệm, viện dẫn tự bào chữa không có căn cứ và không kiểm kê bồi thường, thời hiệu xác lập hành vi khởi kiện là ngày 10/5/2016. Đối tượng khởi kiện này HĐXX không xem xét tại phiên tòa.
+ Căn cứ đơn khởi kiện và đơn sửa đổi bổ sung thì không có đối tượng khởi kiện vụ án hành chính đối với hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải diễn ra từ năm 1993-1995 đối với gia đình ông Huy do vậy HĐXX áp dụng thời hiệu của Luật TTHC đối với yêu cầu đòi tài sản quyền sử dụng đất là không đúng. Gia đình tôi đòi tài sản là bất động sản, đó là Quyền sử dụng đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt và cây gắn liền trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chặt phá. Việc HĐXX tách đòi tài sản thành hai phần, để đình chỉ một phần việc đòi tài sản là quyền sử dụng đất là HĐXX vi phạm Bộ luật dân sự quy định tại Điều 3 khoản 4.
HĐXX nhận định: "Về căn cứ ban hành Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của UBND huyện Tĩnh Gia: Tại khoản 1 Điều 74 Luật đất đai năm 2013 quy định: "Người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại điều 75 của luật này thì được bồi thường"; khoản 1 Điều 75 Luật đất đai 2013 quy định: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhạn quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất (Sau đây gọi là giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để dược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất...". Như vậy điều kiện để được bồi thường phải là người có giấy tờ hoặc là người đang sử dụng đất."
5. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 74 và khoản 1 Điều 75 Luật đất đai 2013 áp dụng cho việc UBND huyện Tĩnh Gia ban hành Quyết định 8745 bồi thường cho các hộ là cố ý làm trái quy định. Vì trong hồ sơ vụ án 8 hộ không có bất cứ loại giấy tờ gì về đất, nêu rõ tại BL109 và BL119, QĐGQKN của UBND huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa đều khẳng định các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở. Về phía chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, năm 2016 cũng khẳng định trên truyền hình Báo Diễn đàn Doanh nghiệp về việc đất bị bỏ hoang không ai đầu tư, cải tạo.
HĐXX nhận định: "Theo ông Lê Minh Vũ, nguồn gốc đất của 08/13 hộ được phê duyệt bồi thường theo quyết định 8745 là do gia đình ông khai hoang trước năm 1980 tại khu vực Đê Đạo, Đê, Hoàng Hóa, Đê Làng, và 67 thước tại hón tre là đất của ông cha ông, nhưng năm 1993 đến năm 1995 đã bị UBND xã Tĩnh Hải thu hồi trái pháp luật giao cho người khác. Tuy nhiên toàn bộ hồ sơ quản lý đất đai các thời kỳ tại khu vực ông Huy khiếu kiện là đất nông nghiệp do Hợp tác xã thôn Liên Vinh và UBND xã Tĩnh Hải quản lý không có tên hộ ông Lê Văn Huy, năm 1993 được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng thủy sản theo Quyết định 327/CP ngày 15/9/1992, của Chính phủ, từ năm 1993 đến nay gia đình ông Huy không sử dụng đất tại khu vực nêu trên"
6. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX nhận định đất đê đạo, đê Hoàng Hóa, đê Làng và Hón Tre do thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải quản lý là phù hợp với quy định, nhưng HĐXX không truy vấn vi phạm của UBND huyện về việc người sử dụng đất trong sổ thuế nông nghiệp là ông Lê Văn Huy nhưng hồ sơ quản lý đất đai lại ghi người sử dụng đất là UBND xã. Với các chứng cứ là sổ thuế nông nghiệp, giấy có xác nhận của chủ tịch UBND xã trên diện tích tự khai 3 héc ta và giao đất thầu ngày 28/8/1994 và kết quả xác minh của Thanh Tra huyện Tĩnh Gia ngày 26/9/1996 của gia đình tôi đã mâu thuẫn với nhận định của HĐXX đó là lý do bản án không khách quan.
- Căn cứ BL227; BL 281-282-283-284-285-286 là hồ sơ giao thầu đất thì việc HĐXX khẳng định giao đất 327 cho các hộ là sai. Việc gia đình tôi không sử dụng đất là do UBND xã chiếm, cản trở thực hiện quyền sử dụng đất. Theo hồ sơ quản lý đất của xã giao nộp cho tòa án thì các thời kỳ đều ghi chủ sử dụng là UBND xã là hoàn toàn phù hợp với việc gia đình tôi khiếu kiện về việc UBND xã chiếm đoạt đất của gia đình tôi. HĐXX khẳng định, năm 1993 được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng thủy sản theo Quyết định 327/CP ngày 15/9/1992, của Chính phủ. Nhận định này mâu thuẫn với đất nông nghiệp canh tác có hiệu quả theo sổ thuế nông nghiệp, giấy giao thầu, thì rõ ràng 8 hộ là người tiêu thụ đất chiếm đoạt của UBND xã đó là:
+ Thứ nhất: Dự án 327 chỉ thực hiện trên đất hoang, đã mâu thuấn với Sổ thuế nông nghiệp của gia đình tôi hoàn thành nghĩa vụ thuế đến vụ 10 năm 1993 thể hiện đất canh tác có hiệu quả. Do vậy việc giao đất dự án 327, cho của gia đình tôi cho các hộ vào năm 1993 là không có căn cứ.
+ Thứ hai: Căn cứ giấy giao thầu cho ông Lê Văn Vũ; ông Lê Văn Hùng; ông Lê Văn Bụt (chuyển nhượng cho Lê Năng Nguyễn) tại các BL227; BL 281-282-283-284-285-286 thì khẳng định việc lấy đất của ông Huy giao thầu thu tiền hàng năm, có thời hạn rồi làm giả hồ sơ ban hành quyết định 8745 bồi thường hỗ trợ cho các hộ theo dự án 327 là trái pháp luật.
+ Thứ ba: Trong hồ sơ vụ án các Văn bản của UBND xã; UBND huyện; UBND tỉnh GQKN cho các hộ (có 8 hộ) đều khẳng định, các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở.
Như vậy việc HĐXX nhận định 8 hộ có tên trong QĐ 8745 trùng trên đất của gia đình tôi được giao đất theo dự án 327 là không có căn cứ và mâu thuẫn với tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án mà nguyên đơn và bị đơn giao nộp. HĐXX không làm rõ việc đánh tráo khái niệm của UBND huyện Tĩnh Gia. Đó là việc tôi đòi trả đất chiếm đoạt không trả đánh tráo thành gia đình tôi không sử dụng, bởi việc bỏ đất không sử dụng và đất bị chiếm không được sử dụng là hoàn toàn khác nhau.
HĐXX nhận định: "Đối với "Sổ thuế nông nghiệp" mang tên Hoàng Huy (theo ông Vũ sổ này lập năm 1992) không phải là giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013, bản thân ông Lê Minh Vũ ngày 21/8/1994 đã có "Đơn xin nhận thầu đê" tại khu vực Hón Tre được Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt cho nhận thầu 5-6 sào (tương đương 2.355m2), năm 1994 ông Vũ đã nộp số tiền 400.000đ để thầu nuôi tôm là có thật nhưng chưa được nhận đất (BL58). Tại Quyết định GQKN số 01/QĐ TT TG ngày 26/9/1996 đã giải quyết "... Việc khiếu nại bồi thường công khai hoang là không đúng, Ủy ban nhân dân xã Tĩnh Hải phải thanh toán tiền chặt cây và tiền đấu thầu nuôi tôm cho gia đình ông Huy vì ông có nguyện vọng rút lại số tiền đó" (BL10). Như vậy từ năm 1995 ông Lê Văn Huy không yêu cầu đòi đất mà chỉ khiếu nại yêu cầu công khai hoang."
7. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX khẳng định" Sổ thuế nông nghiệp không phải là giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013", thể hiện HĐXX không đánh giá chứng cứ. Trước luật đất đai 1993, trong khoán 10 năm 1987 Sổ thuế nông nghiệp quy định về việc phản ánh đất quy chủ cho nông hộ là bằng chứng về việc nhà nước công nhận quyền sở hữu về đất cho hộ gia đình, cá nhân. Tổng cục thuế, Bộ tài chính phát hành sổ quy định:
"Sổ thuế nông nghiệp phản ánh toàn bộ diện tích ruộng đất quy chủ cho nông hộ quản lý sử dụng, căn cứ tính thuế và tính sổ thuế phải nộp theo pháp lệnh. Căn cứ ghi chép sổ gồm: Tờ khai diện tích đất trồng cây hàng năm (Mẫu 3A/TNN) và tờ khai diện tích đất trồng cây lâu năm (Mẫu 3B/TNN). Sổ giao khoán nhận thầu ruộng đất của HTX và xã. Giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất của nông hộ. Tài liệu về định sản lượng khoán, định hạng đất hoặc sản lượng (giá trị sản lượng) tính thuế của xã. Định Suất thuế đối với hạng đất, thuế suất (%) đối với từng loại cây trồng tính theo Pháp lệnh thuế nông nghiệp. Tài liệu tính phân bổ trên diện tích chung như đất giao thông thủy lợi nội đồng... Sổ thuế do chủ hộ quản lý. Sổ thuế được xác định số sổ của từng hộ ghi vào ô chữ nhật ở bìa sổ. Số của sổ đúng với số thứ tự của hộ trong sổ bộ thuế NN của xã để tiện việc theo dõi quản lý. Sổ thuế nông nghiệp của hộ do cán bộ thuế NN xã, phường ghi không ai được tự ý ghi chép hoặc tẩy xóa. Nếu chủ hộ thấy có sai sót thì báo cáo cho cán bộ thuế xã kiểm tra điều chỉnh. Sau khi điều chỉnh cán bộ thuế phải ký xác nhận và ghi rõ họ tên vào sổ. Nông hộ đến nộp thuế phải mang theo sổ...".
Theo quy định tại thời điểm cấp sổ thì, Sổ thuế nông nghiệp giao đất đến từng hộ gia đình cá nhân trong khoán 10 năm 1987 có giá trị pháp lý về quyền sở hữu cho chủ sử dụng đất, giá trị pháp lý cao hơn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai 1993 là vì: Sổ thuế nông nghiệp phản ánh đất quy chủ cho nông hộ quản lý, sử dụng. Như vậy Sổ nông nghiệp đủ điều kiện được phép thay thế: Tờ khai, Sổ giao khoán, Giấy chứng nhận sử dụng ruông đất, Tài liệu về định sản lượng, Định suất thuế thực hiện theo pháp lệnh. Trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện hành nhà nước đại diện chủ sở hữu, người dân chỉ được quyền sử dụng.
HĐXX cho rằng "Sổ thuế nông nghiệp" mang tên Hoàng Huy (theo ông Vũ sổ này lập năm 1992) không phải là giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 là sai bởi sổ thuế nông nghiệp đủ điều kiện đại diện cho các loại giấy tờ về đất theo khoán 10 năm 1987 và là căn cứ xác định chủ sử dụng đất.
- HĐXX nhận định: ông Lê Minh Vũ được Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt cho nhận thầu 5-6 sào (tương đương 2.355m2), năm 1994 ông Vũ đã nộp số tiền 400.000đ để thầu nuôi tôm là có thật nhưng chưa được nhận đất (BL58). Rõ ràng HĐXX không hề đánh giá xem xét chứng cứ, phát quyết theo cảm thích là vì: Theo nguồn chứng cứ thanh tra huyện Tĩnh Gia xác minh tại quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 kết luận: "Xã đã giao cho gia đình ông Huy (tức là ông Vũ) 2355m2 đất đấu thầu nhưng bị người khác chiếm". Nhưng thanh tra huyện lại yêu cầu UBND xã trả tiền, rõ ràng người khác chiếm đất của tôi chính là UBND xã, bởi chỉ có người chiếm đất mới phải trả tiền. Do vậy HĐXX khẳng định tôi chưa được giao đất là HĐXX không đánh giá chứng cứ.
- Ông Lê Văn Huy không đòi công khai hoang, mà là đòi đất. Để chứng minh cho việc thanh tra huyện Tĩnh Gia, xác minh sơ sài thiếu, trách nhiệm, sai đối tượng khiếu nại, không đúng nội dung đơn có căn cứ đó là: Hồ sơ ông Vũ thầu đất, đòi đất nhưng lại xác minh là ông Huy đòi đất. Kết luận đất của thầu của ông Huy bị người khác chiếm nhưng yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải trả tiền, công nhận xã chặt cây làm đường điện và đường giao thông, như quyết định chỉ nói rõ đến việc đền cây còn việc chiếm đất làm đường thì chỉ nói chung chung đó là "xã chặt cậy làm đường điện và đường giao thông nông thôn là có thật chưa bồi thường cho ông". UBND xã giao cho ông Vũ 6 sào là phù hợp với diện tích đất của ông Vũ mà xã chiếm giao cho ông Bụt (ông Bụt chuyển nhượng cho ông Nguyễn) theo xác minh của thanh tra thì UBND xã đã giao cho tôi 2355m2 đất là có căn cứ, nhưng bị UBND xã chiếm đoạt lại. Thanh tra không có biên bản nào làm việc với ông Huy nên việc khẳng định ông Huy đòi công khai hoang là không có cơ sở, theo đơn khiếu kiện gửi các thời kỳ thì gia đình tôi đòi đất khai hoang, không đòi bồi thường công khai hoang.
HĐXX nhận định: "Năm 2016 thực hiện Dự án xây dựng đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn, căn cứ Luật đất đai 2013, căn cứ hiện trạng sử dụng đất, UBND huyện Tĩnh Gia cũng không bồi thường về đất, mà tại Quyết định 8745 chỉ phê duyệt bồi thường tài sản và chính sách hỗ trợ đối với các hộ đang trực tiếp nuôi trồng thủy sản là có căn cứ và đúng đối tượng. Hội đồng xét xử sơ thẩm không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn Huy hủy Quyết định phê duyệt bồi thường của UBND huyện Tĩnh Gia."
8. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Nhận định này của HĐXX đối chiếu với quyết định 8745 không bồi thường về đất là mâu thuẫn bởi BL153 có bồi thường về đất, điều này thể hiện UBND huyện Tĩnh Gia đã làm giả hồ sơ bồi thường chiếm đoạt tài sản. Là lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái quy định, do HĐXX không đánh giá chứng cứ, xét xử vắng mặt người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đó là nguyên nhân HĐXX không chấp nhận yêu cầu hủy quyết định 8745.
Đại diện theo ủy quyền
Lê Minh Vũ
CHÚNG TÔI SẼ TIẾP TỤC THÔNG TIN VỀ VIỆC CHỦ TỊCH UBND XÃ TĨNH HẢI, CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA LÀM HỒ SƠ, QUYẾT ĐỊNH GIẢ VÀ CÁCH XỬ LÝ TIẾP THEO CỦA THẨM PHÁN NGUYỄN THỊ CHINH, TÒA ÁN TỈNH THANH HÓA
TIN ĐỘNG TRỜI VIỆT NAM
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
TẠI PHIÊN TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
TRƯỚC VIỆN KIỂM SÁT TỈNH THANH HÓA VÀ CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
TÔI TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ ĐỀ NGHỊ KHỞI TỐ NGUYỄN TIẾN DŨNG, CHỦ TỊCH UBND HUYỆN TĨNH GIA; NGUYỄN THỊ NGA, CHỦ TỊCH UBND XÃ TĨNH HẢI NHƯNG TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRẢ LỜI; "KHÔNG THUỘC TRÁCH NHIỆM"
TÔI PHÂN VÂN MÃI VÀ ĐẶT CÂU HỎI: TẠI SAO VKS VÀ TÒA ÁN CÁC CẤP CHẤP NHẬN PHẠM TỘI, XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP, ĐỘNG CƠ CÓ PHẢI DO NHẬN HỐI LỘ?!
ĐẾN BÂY GIỜ TÔI MỚI NGHĨ RA: CÁC QUYẾT ĐỊNH KHÔNG ĐÚNG, KHÔNG THÀNH MÀ TÔI KHIẾU KIỆN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY. ĐỐI VỚI CẤP TỈNH(TẠI THỜI ĐIỂM KHIẾU KIỆN, THỜI ĐIỂM HÀNH VI) CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ÔNG MAI VĂN NINH (cán bộ trung ương) - ÔNG TRỊNH VĂN CHIẾN (ủy viên trung ương đảng) - ÔNG LÊ ĐÌNH THỌ (thứ trưởng bộ giao thông vận tải) - ÔNG LÊ ĐÌNH XỨNG (chủ tịch ubnd tỉnh Thanh Hóa). ĐỐI VỚI CẤP HUYỆN (TẠI THỜI ĐIỂM KHIẾU KIỆN, THỜI ĐIỂM HÀNH VI) CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI CỦA ÔNG LÊ MINH THÔNG (đại biểu quốc hội) - NGUYỄN TIẾN DŨNG (chủ tịch ubnd huyện Tĩnh Gia) LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ QUAN HỆ RỘNG, TẦM ẢNH HƯỞNG RẤT LỚN. Còn đối với kẻ bàn đạp phạm tội là trưởng thôn, tư pháp và chủ tịch xã lại là người lắm tiền lo lót. BIẾT RẰNG RẤT KHÓ KHĂN NHƯNG TÔI VẪN LUÔN LẠC QUAN, KIÊN CƯỜNG ĐẤU TRANH ĐÒI TÀI SẢN VÀ LÀM RÕ ĐỒNG BỌN PHÁ HOẠI XÃ HỘI ĐƯỜNG LỐI CHỦ NGHĨA CỦA VIỆT NAM!
ĐƠN KHÁNG CÁO BẢN ÁN SƠ THẨM, TÒA ÁN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI XỬ PHÚC THẨM NGÀY 24/5/2018 ĐẾN NAY CHƯA GIAO BẢN ÁN
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày 26 tháng 03 năm 2018
ĐƠN TRÌNH BÀY Ý KIẾN
(THEO KHÁNG CÁO TOÀN BỘ BẢN ÁN)
Kính gửi: Tòa
án Nhân dân Cấp Cao tại Hà Nội.
Tôi
là:
Lê Minh Vũ Sinh năm
1968.
Là Đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn Huy, nguyên đơn
trong vụ án hành chính «Yêu
cầu hủy Quyết định số: 8745/QĐ-UBND,
08/12/2016 của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia »
Vụ án đã được TAND tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm ngày 12/09/2017, bản án số 49/2017/HC-ST
Ngày 19/9/2017, tôi
đã nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án số 49/2017/HC-ST ngày 12/9/2017 của TAND tỉnh Thanh Hóa.
Tôi xin trình bày
rõ các quan điểm, lập luận của việc kháng cáo như sau:
Tại đơn khởi kiện ngày 10/4/2017, tôi yêu cầu hủy Quyết định số 8745/QĐ-UBND
ngày 08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia vì đối tượng của Quyết định
đang có tranh chấp, không xác định đúng tên người sử dụng đất. Tại phiên xét xử
sơ thẩm, các tài liệu chứng minh đang có tranh chấp QSD đất, đang có khiếu kiện
kéo dài không được xem xét, đánh giá và làm rõ.
Ngày 01/7/2017 tôi có đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải (người có quyền lợi liên quan), giải
trình các hành vi hành chính làm phát sinh tranh chấp, làm rõ sự thực khách
quan của quá trình sử dụng đất. Quá trình xét xử sơ thẩm , Tòa án không yêu cầu
giải trình, không làm rõ quá trình sử dụng đất. Tôi không khởi kiện UBND xã
Tĩnh Hải, TAND tỉnh Thanh Hóa cùng không xác định UBND xã Tình Hải là bị đơn,
nhưng tòa lại xét xử hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải và căn cứ thời
gian xảy ra hành vi để bác yêu cầu.
Ngày
16/8/2017, tôi nộp đơn khởi kiện bổ sung tại tòa, có biên bản giao nhận. Quá
trình xét xử sơ thẩm, mặc dù tôi có ý kiến phản đối, nhưng HĐXX sơ thẩm không
xem xét đơn khởi kiện bổ sung này của tôi.
Tại phiên
tòa hành chính sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều
vắng mặt, nguyên đơn không đồng ý xét xử vắng mặt bị đơn. Do bị đơn vắng mặt
nên nguyên đơn không có điều kiện đặt câu hỏi, tranh luận tại tòa, nhiều vấn đề
không thể làm rõ được.
Tại nhận định
thứ 2 của bản án sơ thẩm, xác định “gia
đình ông khiếu nại ... không phải là sự kiện bất khả kháng” là nhận định thiếu
khách quan. Bởi vì:
- Quá trình khiếu nại liên tục trong thời gian kéo dài, UBND
huyện Tĩnh Gia liên tục tiếp nhận đơn nhưng không ban hành quyết định giải quyết
khiếu nại, không yêu cầu cung cấp bổ sung chứng cứ, không hướng dẫn công dân
quyền được tiếp tục khiếu nại lần 2 hay quyền khởi kiện nên công dân không đủ
điều kiện để thực hiện quyền khởi kiện.
- Quyết định GQKN số 01/QĐ-TTG của Thanh tra huyện Tĩnh Gia
ngày 26/9/1996 ban hành không đúng thẩm quyền. Nội dung Quyết định không xác định
đây là QĐ GQKN cuối cùng, cũng không quy định quyền được khiếu nại lần 2 hay
quyền khởi kiện của đương sự.
- Tại mỗi thời điểm có các quy định về thẩm quyền và thời
hiệu khác nhau, có thời điểm phải có kết quả trả lời khiếu nại lần đầu mới được
khởi kiện. Bằng việc UBND huyện Tĩnh Gia liên tục tiếp nhận đơn khiếu nại nhưng
không ra Quyết định GQKN đúng thẩm quyền, gây trở ngại khách quan cho công dân
thực hiện quyền khiếu nại lần 2 hoặc khởi kiện hành chính. HĐXX sơ thẩm không
xem xét việc thiếu trách nhiệm của UBND huyện Tĩnh Gia là trở ngại khách quan,
là nguyên nhân trực tiếp làm nguyên đơn không đủ điều kiện thực hiện quyền khởi
kiện.
Tại nhận định
3 của bản án sơ thẩm, nhiều chi tiết chưa được làm rõ, nhiều mâu thuẫn không được
xác minh, nhiều khái niệm bị đánh tráo. Cụ thể:
- Việc tranh chấp thu hồi đất kéo dài từ 1993, nhưng HĐXX
sơ thẩm áp dụng k1 đ 74 Luật đất đai 2013 để xác định điều kiện bồi thường là
không hợp lý. Mâu thuẫn cần xác định là “có
tranh chấp về đất đai từ năm 1993 không?” được lập luận thành “không đủ điều kiện được bòi thường theo luật
đất đai 2013”.
- “nguồn gốc đất của
8/13 hộ được phê duyệt bồi thường theo QĐ 8745 do gia đình ông khai hoang trước
1980”, là lời khai của nguyên đơn hoàn toàn phù hợp với lời
khai của những người làm chứng, cùng khai hoang, cùng sử dụng, cùng bị thu hồi,
có các giáp gianh xác định... lại không được xem xét thẩm định và đánh giá đúng
tại phiên tòa.
- “Tuy nhiên toàn bộ
hồ sơ quản lý đất đai các thời kỳ tại khu vực ông Huy khiếu kiện là đất nông
nghiệp do HTX thôn Liên Vinh và UBND xã Tĩnh Hải quản lý không có tên hộ ông Lê
Văn Huy” là nhận định không đúng. Thứ nhất, ông Huy khiếu kiện đất
tại 8 vị trí khác nhau, trong đó có đất nông nghiệp và đất ở nông thôn. Thứ
hai, nếu không có tên hộ ông Lê Văn Huy thì vì sao có “sổ thuế nông nghiệp”
giao theo khoán 10 mà UBND huyện thừa nhận là có tồn tại, chỉ tranh luận về giá
trị chứng minh QSD đất quy định theo điều 100? Thứ ba, trước năm 1993 là đất
nông nghiệp hai lúa giao theo khoán 10, các thời kỳ đều là đất nông nghiệp thì
thủ tục thu hồi đất đang sử dụng để giao cho người khác đâu? Sổ mục kê các thời
kỳ của UBND xã Tĩnh Hải có vấn đề, cần thẩm tra xác minh và đánh giá lại chứng
cứ.
- Các lời khai của
những người có quyền lợi liên quan, đều vắng mặt tại phiên tòa (Lê Văn Sắt, Lê
Năng Sen, Lê Văn Hùng, Lê Thị Nhung, Lê Văn Nguyện, Lê Năng Nguyễn, Lê Văn Huấn,
Lê Ngọc Trung) cần xác minh lại. Các lời khai “Khoảng từ năm 1988 đến 1993 các gia đình cùng nhau khai hoang” mâu
thuẫn với lời khai của những người làm chứng, nhưng chưa được tòa sơ thẩm xác
minh, tổ chức đối chất để làm sáng tỏ. Các lời khai “các gia đình không biết ông Lê Văn Huy, ông Lê Minh Vũ là ai” thể
hiện sự thiếu trung thực, thiếu khách quan vì mọi người đều sinh ra và lớn lên ở
quê hương, và thôn Liên Vinh không phải là quá lớn.
- “Bản thân ông Lê
Minh Vũ ngày 21/8/1994 đã có “Đơn xin nhận thầu đê”..” không trực tiếp ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của ông Lê
Văn Huy trong việc khiếu nại đòi QSD đất. Ông Lê Minh Vũ nhận ủy quyền của ông
Lê Văn Huy đòi QSD đất không làm hạn chế quyền ông Lê Minh Vũ nhận danh chính
mình để tham gia đấu thầu.
-
Quá trình khiếu kiện
kéo dài với nhiều đơn từ. Trong nhiều đơn từ một đơn từ có một văn bản giải quyết.
Trong văn bản giải quyết có nhiều nội dung. Tuy nhiên HĐXX sơ thẩm căn cứ 1 nội
dung trong QĐ GQKN 01 để kết luận “Như vậy,
từ năm 1995 ông Lê Văn Huy không yêu cầu đòi đất...” là khiên cưỡng và trái
với sự thật khách quan của vụ việc.
Đối với yêu cầu khởi kiện hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải, theo đơn
khởi kiện ngày 10/4/2016: Lý do khởi kiện là UBND xã Tĩnh Hải không xác minh diện
tích đất Cồn Đồi theo kết luận của Biên bản làm việc ngày 10/5/2016.
-
HĐXX sơ thẩm không
làm rõ, không cho nguyên đơn trình bày nên đã nhầm lẫn giữa diện tích đất Cồn Đồi
với diện tích Đầm nuôi tôm, nhầm lẫn về đối tượng dẫn đến nhận định sai lầm.
-
Biên bản làm việc
giải quyết “Đơn xin kiểm kê bồi thường đường Bắc Nam 2” giữa gia đình nguyên
đơn với UBND xã Tĩnh Hải ngày 10/5/2016, là căn cứ khởi kiện, đã nộp tại tòa án
ngày 12/4/2017 không được thể hiện trong hồ sơ, không được xem xét, nguyên đơn
không được trình bày và tranh luận.
-
UBND xã Tĩnh Hải
không thực hiện theo kết luận tại Biên bản ngày 10/5/2016 là hành vi hành chính
bị khởi kiện ngày 08/4/2016, được giao nộp tại tòa ngày 12/4/2016. Nhưng HĐXX
sơ thẩm xác định đã hết thời hiệu khởi kiện là không có căn cứ.
Kính thưa Quý tòa!
Với các vi
phạm thủ tục tố tụng, với các mâu thuẫn chưa được làm rõ, với các nhận định phiến
diện và sai thực tế, HĐXX sơ thẩm đã ra bản án không khách quan.
Đúng ra, khi
đã có căn cứ xác định đất đang có khiếu kiện tranh chấp, chưa có quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai có hiệu lực pháp luật, Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia đã
ban hành Quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016, xác định chủ sử dụng đất không có căn cứ
là hành vi trái pháp luật, Quyết định số 8745/QĐ-UBND cần phải hủy bỏ.
Trong đơn khởi
kiện yêu cầu hủy bỏ quyết định hành chính, nguyên đơn có yêu cầu Tòa án giải
quyết thêm phần trách nhiệm dân sự do hành vi hành chính cưỡng chiếm của UBND
xã Tĩnh Hải. Trách nhiệm dân sự do hành vi hành chính gây ra bao gồm yêu cầu trả
lại QSD 36.756 m2 (tại 05 vị trí đất bao gồm: 2 ha đất tại đê
Hoàng Hóa, 1,5211ha tại đê Làng, 825 m2 tại Cồn Đồi, 420 m2
tại khu Vườn Nhà, 9 thước tại Tây đường 7), và tài sản trên đất (139 cây tre; 22 cây trúc; 18 cây kè; 02 cây dừa; 02 cây
nhãn; 04 cây xoan; 02 cây bưởi; 01 cây
mít; 02 khóm mây).
Hội đồng xét
xử tại phiên tòa sơ thẩm xác định phần trách nhiệm dân sự do hành vi hành chính
không có căn cứ pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải, trở thành tranh
chấp dân sự để bác yêu cầu của nguyên đơn trong vụ án hành chính là không
đúng bản chất vụ án, không bảo đảm nguyên tắc khách quan vô tư, không bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Với các căn
cứ đó, tôi kính đề nghị Tòa án Nhân dân Cấp Cao tại Hà Nội xem xét ra Quyết định
hủy bản án sơ
thẩm, giao hồ sơ để TAND tỉnh Thanh Hóa xét xử lại.
Kính mong Tòa án Nhân dân Cấp Cao tại Hà nội xem xét,
giải quyết.
Cùng với bản trình bày ý kiến, tôi xin nộp kèm các tài liệu sau :
-
Bản sao Biên bản giao nhận tài liệu ngày 12/4/2017 ;
(không có trong
hồ sơ chuyển lên tòa Phúc thẩm)
-
Bản sao Biên bản làm việc của UBND xã Tĩnh Hải ngày
10/5/2016 ;
(không có trong
hồ sơ chuyển lên tòa Phúc thẩm)
-
Bản sao Biên bản giao nhận Đơn khởi kiện bổ sung ngày
16/8/2017 ;
(không có trong
hồ sơ chuyển lên tòa Phúc thẩm)
-
Bản sao Thông báo của VKSND tỉnh Thanh Hóa chuyển hồ sơ 451 bút lục ;
Tôi xin trân
trọng cảm ơn !
Người làm đơn
Lê Minh Vũ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày
22 tháng 5 năm 2018
ĐƠN
BỔ SUNG CHI TIẾT THEO ĐƠN TRÌNH BÀY 28/3/2018
Về việc kháng
cáo toàn bộ bản án số 49/2017/HC-ST
ngày 12/9/2017
của Tòa án Nhân Dân tỉnh Thanh Hóa.
Kính gửi: Hội Đồng Xét Xử, Tòa Phúc Thẩm, Tòa Án
Cấp Cao Tại Hà Nội
Đại Diện Viện Kiểm Sát Cấp Cao
Tại Hà Nội
Tên tôi là Lê Minh Vũ, sinh năm
1968. Là đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn Huy sinh năm 1925, là người khởi
kiện vụ án hành chính đối với Quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016
của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia và Hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải xác
lập ngày 10/5/2016.
Địa chỉ: Thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Điện thoại số: 0913.128.167; Email: vutan326798@gmail.com.
NỘI DUNG CHI TIẾT
KHÁNG CÁO TÒA BỘ BẢN ÁN
HĐXX tổng tóm tắt: "Theo đơn khởi kiện ngày
10/4/2017; đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 01/7/2017".
Nguyên
đơn giải trình chi tiết 1
- Căn cứ nhật ấn Bưu điện, Biên bản
giao nhận tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với tóm tắt của Hội đồng xét xử (HĐXX)
thì các đơn còn tồn tại giá trị
pháp lý trong hồ sơ vụ án không được HĐXX xem xét, không bác bỏ, không trả
lại đơn gồm:
+ Đơn khởi kiện quyết định mang tên
Công ty Giáo dục Vũ Tấn, đơn đề ngày
28/12/2016, nhật ấn bưu điện ngày 2/1/2017 (có trong hồ sơ Phúc thẩm);
+ Đơn khởi kiện quyết định mang
tên người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Minh Vũ, đơn đề
ngày 2/3/2017 nộp ngày 2/3/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong
hồ sơ Phúc thẩm).
+ Đơn khởi kiện vụ án hành chính mang
tên người khởi kiện là ông Lê Văn Huy và người nhận ủy quyền đơn đề ngày 12/4/2017 nộp ngày
12/4/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong hồ sơ Phúc thẩm);
+ Đơn bổ sung thêm yêu cầu
khởi kiện đơn đề ngày 16/8/2017,
giao nộp ngày 25/8/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong hồ sơ Phúc
thẩm);
+ Đơn bổ sung yêu cầu khởi
kiện đơn đề ngày 12/9/2017,
giao nộp ngày 12/9/2017 (có biên nhận nhưng đơn không có trong hồ sơ Phúc thẩm);
- Không xem xét đối tượng khởi kiện vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải
xác lập tại Biên bản làm việc ngày 10/5/2016.
- Bút lục xét xử sơ thẩm thiếu 12 bút lục so với số bút lục
chuyển sang Viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa.
+ Thời gian từ nhận đơn đến thụ
lý vụ án kéo dài 4 tháng 9 ngày (2/1/2017 đến 11/5/2017) mà không có lý do
chính đáng. Thời gian này Thẩm phán hướng
dẫn sửa đơn bằng miệng, định hướng có lợi cho người bị kiện, từ nguồn chứng cứ
trở thành đối tượng khởi kiện bị hủy là vi phạm nghiêm trọng Luật tố tụng hành
chính (LTTHC) quy định tại Điều 121. Nhận và xem xét đơn khởi kiện;
Điều 122. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; Điều 125.
Thụ lý vụ án.
- HĐXX hành xử không công bằng, không minh bạch:
+ Ngày 12/9/2017 trước lúc Hội đồng xét xử
làm việc Thẩm phán có nhận đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện và chứng cứ. Nhưng không
đưa chứng cứ và yêu cầu ra xem xét tại phiên tòa và cũng không biên nhận, theo mẫu giấy màu vàng ghim trên tập chứng cứ và yêu cầu bổ sung mà Tòa
án trả lại cho tôi ngày 13/9/2017 có ghi: "Ông Lê Minh Vũ nộp tại phiên
tòa sơ thẩm 12/9/2017" nên phiên xét xử chỉ mang tích hình thức.
- Tôi không đồng ý việc xét xử vắng mặt người
bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Chủ tọa phiên
tòa không lấy ý kiến HĐXX mà tự quyết định xét xử nên chứng cứ mâu thuẫn với nhau
không được làm rõ tại tòa. Tôi yêu cầu HĐXX công khai hồ sơ UBND xã Tĩnh Hải
lấy đất nông nghiệp năm 1993;1994 của gia đình ông Huy và hồ sơ giao đất cho 8
hộ trùng trên đất của gia đình tôi. thì Chủ tọa phiên tòa trả lời: "Anh
đang khởi kiện UBND xã Tĩnh Hải
thu và giao đất trái pháp luật thì làm gì có hồ sơ để công khai". Căn cứ Luật đất
đai 1987 đối với đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm trước 15/10/1993; Luật đất đai
1993 đối với đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm sau ngày 15/10/1993 và Nghị định 64,
năm 1993. Việc chủ tọa thừa nhận sai phạm của UBND huyện Tĩnh
Gia và 8 hộ không có hồ sơ giao nhận đất, nên việc tôi yêu cầu hủy quyết định bồi
thường hỗ trợ số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 là có căn cứ:
+ Đối tượng bồi thường hỗ trợ
không có các loại giấy tờ về đất, được Chủ tọa phiên tòa khẳng định trước HĐXX
+ Đối tượng được bồi thường hỗ
trợ không sử dụng đất, căn cứ tại bút lục số 109; 119 là QĐGQKN của Chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa. Chứng cứ có số thứ tự 34 đơn khởi kiện
ngày 10/4/2017 là bản tin phóng sự truyền hình của Báo Diễn đàn Doanh Nghiệp đầu
năm 2016, chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải khẳng định đất bỏ hoang hóa không ai chịu
đầu tư sản xuất. Là căn cứ về việc UBND huyện Tĩnh Gia làm hồ sơ giả bồi thường
hỗ trợ cho người không sử dụng đất.
HĐXX tổng
tóm tắt: "Tuyên bố quyết định số
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tĩnh Gia (sau
đây viết tắt là UBND) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng dự án: Đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn là quyết định trái pháp
luật;"
Nguyên đơn giải
trình chi tiết 2. Trong hồ sơ vụ án có Văn bản của Chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa; Tiếp công dân Trung Ương Đảng; Văn phòng Chính phủ; các Bộ ngành và
Báo VietNamNet gửi nhiều Công văn, Hướng dẫn, Thư chuyển đơn yêu cầu nhưng Chủ
tịch UBND huyện Tĩnh Gia không giải quyết khiếu nại. Năm 2013 gia đình tôi cũng
đã khởi kiện chủ tich UBND tỉnh đến Tòa án Nhân tỉnh Thanh Hóa, bị tòa tỉnh trả
lại đơn khởi kiện. Tôi kháng cáo tới Tòa án Nhân dân Tối cao. Ngày 12/9/2013 Tòa án Nhân đân Tối cao gửi
Công văn số 589/PC-BTK tới Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa (TAND-TTH). Về
việc chuyển đơn thư khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhiều lần
tôi đến Tòa án tỉnh kiến nghị nhưng đơn khởi kiện ngày 11/8/2013 Chánh án tỉnh
Thanh Hóa vẫn không giải quyết. Khiếu kiện không giải quyết nên việc UBND huyện
Tĩnh Gia Quyết định 8745/QĐ-UBND, ban hành để làm đường trùng trên đất của gia
đình tôi là làm chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp, nên việc
yêu cầu hủy Quyết định 8745/QĐ-UBND trái pháp luật là có căn cứ.
HĐXX tổng
tóm tắt: "Tuyên bố quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của
Phó chánh thanh tra huyện Tĩnh Gia về việc giải quyết khiếu nại của ông Lê Văn
Huy, thôn Vinh Quang, xã Tĩnh Hải là quyết định trái pháp luật;"
Nguyên đơn giải trình chi tiết 3. Căn cứ đơn khởi
kiện đầu tiên qua đường Bưu Điện, ngày 28/12/2016, tôi không khởi kiện Quyết định 01/QĐ-TTTG của
Thanh Tra huyện Tĩnh Gia, ngày 26/9/1996, mà đưa quyết định 01/QĐ-TTTG vào với tư cách là
nguồn chứng cứ khiếu kiện đòi tài sản, là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt và hủy hoại. Trong quá trình Tòa án
hướng dẫn sửa đơn có nói với tôi rằng: Quyết định 01 của Thanh Tra huyện làm sai
thì để lại hay hủy phải nêu rõ, đó là lý do đơn khởi kiện ngày 10/4/2017 tôi
yêu cầu Tòa án bảo lưu một phần kết quả xác minh đúng thẩm quyền của Thanh tra
và yêu cầu hủy phần quyết định giải quyết khiếu nại không đúng thẩm quyền của
Thanh tra huyện Tĩnh Gia
HĐXX tổng
tóm tắt: "Yêu cầu xem xét hành vi thu hồi đất trái pháp luật
của UBND xã Tĩnh hải, huyện Tĩnh Gia đối với gia đình ông Lê Văn Huy diễn ra từ
năm 1993 đến năm 1995 tại 08 vị trí đất gồm: 02 ha tại khu vực Đê Hoàng Hóa; 01
ha tại khu vực Đê Làng; 67 thước đất trong sổ thuế nông nghiệp tại Đê làng; 06
sào đất đồng tôm ở Đê Làng; 420 m2 đất vườn tại thôn Liên Vinh; 225
m2 đất ở tại khu vực đê Làng và đê Châm; 600 m2 đất đồi ở
khu vực Đê Làng và Đê Châm; 09 thước đất phía tây Đường 7".
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 4.
- Theo nội dung đơn khiếu kiện tôi đòi đất
mà UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt, tuyệt
đối tôi không khởi kiện vụ án hành chính về hành vi thu hồi đất trái pháp luật
của UBND xã Tĩnh Hải nên HĐXX đã nhận định sai về đối tượng khởi kiện.
- Việc HĐXX thừa nhận tôi đòi
đất bị chiếm đoạt ở 8 vị trí khác nhau, mục đích sử dụng đất khác nhau, thời
điểm chiếm đoạt khác nhau là áp dụng Luật TTHC 2015 tại Điều 34 khoản 1 quy
định: về việc giải quyết vụ án theo
thủ tục chung, sau khi thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp
để giải quyết. Việc HĐXX biến
tất cả yêu cầu đòi tài sản thành đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, để áp
dụng thời hiệu chấm dứt quyền đòi tài sản là không đúng.
HĐXX tổng tóm tắt: "... sơ đồ
hiện trạng Đê Làng, Đê Hoằng Hóa, Đê Mới trước năm 1993 do ông Lê Minh Vũ tự
vẽ; lời khai người làm chứng (ông Lê Quang Hồng; bà Lê Thị Ninh; ông Lê Hữu
Bút; ông Lê Văn Quang) và các văn bản hướng dẫn đơn của cơ quan có thẩm quyền
đối với ông Lê Văn Huy, ông Lê Minh Vũ từ năm 2008 đến nay."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 5. HĐXX khẳng định,
sơ đồ hiện trạng Đê Làng, Đê Hoằng Hóa, Đê Mới tôi tự vẽ là không đúng. Bởi vì
sơ đồ hiện trạng Đê Làng, Đê Hoằng Hóa, Đê Mới trước năm 1993 giao nộp trong hồ
sơ vụ án do các hộ làm ruộng liền kề lập
và cùng nhau ký xác nhận mốc giới với ruộng của gia đình tôi gồm: ông
Quang; ông Bút; ông Hồng; bà Ninh; bà Thiết, ". Cùng với bản tự khai của
các hộ làm ruộng liền kề, thể hiện rất rõ về vị trí hiện trạng đất của gia đình
tôi tại thời điểm đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt, chứng cứ này có trong hồ
sơ vụ án.
HĐXX tổng tóm tắt: "Tại
bản tự khai ngày 25/5/2017 và quá trình giải quyết tại Tòa án, người đại diện
theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia trình bày:
Năm 1996 nhận
được đơn khiếu nại của ông Lê Vắn Huy ở thôn Vinh Quang, xã Tĩnh Hải, huyện
Tĩnh Gia, Thanh tra huyện Tĩnh Gia đã ban hành quyết định số 01/QĐ/TTTG ngày
26/9/1996 để gải quyết khiếu nại là đúng thẩm quyền. Căn cứ Điều 11, Mục 2 Pháp
lệnh số 53-LCT/HDDNN8 của Hội đồng Bộ trưởng về khiếu nại tố cáo của công dân,
Quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên việc ông Lê Văn huy khởi kiện yêu cầu
hủy QĐGQKN của Thanh tra huyện Tĩnh Gia
là không được chấp nhận."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 6. Người khởi kiện
và người bị kiện đối lập quan điểm trong vụ án HĐXX không có ý kiến gì, đó là
việc UBND huyện Tĩnh Gia căn cứ theo Điều 11, Mục 2 Pháp lệnh số 53-LCT/HDDNN8
thì Thanh tra huyện chỉ được giải quyết khiếu nại khi: Chủ tịch UBND xã đã giải
quyết mà đương sự còn khiếu nại. Thực tế không có chứng cứ nào chứng minh UBND
xã giải quyết khiếu nại mà gia đình tôi không đồng ý nên UBND huyện Tĩnh Gia áp
dụng Điều 11 Mục 2 là không đúng. Theo Mục 2, Điều 10, khoản 2 Pháp lệnh số
53-LCT/HDDNN8 quy định: Khiếu nại việc làm của thủ trưởng cơ quan nào thì thủ
trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết; Mặt khác Luật đất đai 1993 ngày 14/7/1993
tại điểm a khoản 2 Điều 38 quy định về việc giải quyết tranh chấp đất giữa hộ
gia đình với tổ chức trong trường hợp người sử dụng đất không có giấy chứng
nhận thì chủ tịch UBND huyện giải quyết. Như vậy căn cứ Pháp lệnh khiếu nại
1991; Luật đất đai 1993 thì việc chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất của gia đình tôi, Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia phải giải quyết. Do trong đối thoại và trong xét xử sơ thẩm vắng
mặt người bị kiện nên nội dung này không được đối chất làm rõ trước HĐXX.
HĐXX tổng tóm tắt: "Về nguồn gốc đất của các hộ dân được phê duyệt
bồi thường theo quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch UBND
huyện Tĩnh Gia để thực hiện dự án xây dựng đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi
Sơn tại xã Tĩnh Hải là đất được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng
thủy sản theo dự án 327 của Chính phủ."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 7. Việc UBND huyện
Tĩnh Gia khẳng định: UBND xã Tĩnh Hải giao đất cho các hộ nuôi trồng thủy sản
theo dự án 237, là tự mâu thuẫn với tài liệu mà các bên đương sự giao nộp trong
hồ sơ vụ án, đó là sổ thuế nông nghiệp đóng thuế đến năm 1992 chứng minh
đất này không phải đất hoang hóa để thực hiện dự án 327. Tại các bút lục: (BL74;
286; 284) ông Hùng (trong 8 hộ) tự khai nhận là ông Hùng thầu đất và giấy
UBND xã giao đất thầu cho ông Hùng có thu tiền nhưng quyết định 8745 lại bồi
thường đất dự án 327 cho ông Hùng thể
hiện rõ về việc UBND huyện Tĩnh Gia làm hồ sơ giả bồi thường; (BL281; 282)
UBND xã Tĩnh Hải xác nhận cho ông Lê Văn Bụt chuyển nhượng đất thầu (xã thu
tiền hàng năm, thầu có thời hạn) cho ông Lê Năng Nguyễn là vi phạm; (BL120)
UBND tỉnh Thanh Hóa báo cáo Chính phủ về việc năm 2005 UBND xã Tĩnh Hải thu hồi
đất của 8 hộ gia đình do không đạt mục tiêu thực hiện dự án 327; Văn bản của
UBND tỉnh khẳng định năm 2006 UBND xã kêu gọi trên loa phóng thanh của xã cho
đấu thầu công khai trên đất của 8 hộ mà xã đã thu hồi, người trúng thầu năm
2006 là ông Du và ông Vững khẳng định 8 hộ được bồi thường là do làm hồ sơ giả.
(BL119) Quyết định 565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa khẳng định
năm 2008 khu đất này UBND xã Tĩnh Hải xác định là đất công ích 5% lấy tiền gửi
ngân hàng, nhưng bị UBND tỉnh bác bỏ, do
UBND huyện không xác định được chủ sử dụng đất nên UBND tỉnh yêu cầu UBND xã
Tĩnh Hải nộp tiền bồi thường về đất vào ngân sách của UBND tỉnh. Quyết
định 565/QĐ-UBND của tỉnh cũng tái khẳng định năm 2008 Đê Đạo (Đê Hoàng Hóa) người
sử dụng là ông Du; ông Vững, Đê Làng có 27 hộ sử dụng. 8 hộ nhận tiền hỗ trợ
trùng trên đất gia đình tôi mà tòa án đưa vào người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án mà QĐ-GQKN đã khẳng định
việc các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở. Từ năm 2005, 8 hộ đã bàn giao đất cho xã, xã cho ông Du và ông Vững
thầu khai thác tôm cá tự nhiên (thầu giữ cống). Căn cứ các quyết định GQKN
của UBND huyện và tỉnh tại các năm 2010 - 2012, Văn bản của Thanh tra tỉnh và
UBND tỉnh Báo cáo Chính phủ. Đối chiếu với quyết định 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia thì rõ ràng Chủ tịch UBND huyện
Tĩnh Gia không xác định chủ sử dụng đất trong thời gian dài, buông lỏng quản lý, hủy hoại đất, làm giả
hồ sơ về vật kiến trúc, vật nuôi để hỗ trợ cho 8 hộ nhận tiền, việc nhận tiền
có chia nhau tại UBND xã Tĩnh Hải, các sai phạm đó không được đối chất
làm rõ tại tòa (BL114; 115) ngày 10/8/2010 Thanh tra tỉnh báo cáo
Chủ tịch UBND tỉnh về việc 8 hộ nêu trên thuộc "nhóm thứ 3", đã
chuyển nhượng đất hoặc bỏ đất hoang không làm nên năm 2006 UBND xã Tĩnh Hải thu
lại giao thầu cho ông Du, ông Vững.
Nhìn chung từ (BL104 đến BL120)
và nhiều quyết định năm 2010, năm 2012 của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia và
chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa giải quyết khiếu nại về việc 8 hộ đòi bồi thường
đất dự án 327, các Quyết định đều khẳng định 8 hộ yêu cầu bồi thường đất dự án
327 là không có cơ sở. Trùng trên đất gia đình tôi đang khiếu nại, thì các
quyết định có số bút lục kể trên, UBND huyện và UBND tỉnh đều nhắc đến việc 8
hộ bỏ đất hoang, năm 2006 UBND xã đã thu lại đất giao thầu cho ông Du và ông
Vững. Mặt khác theo đơn ngày 10/4/2017 tại chứng cứ có số thứ tự 34 trong đơn
khởi kiện là phóng sự truyền hình của Báo Diễn đàn Doanh Nghiệp,
năm 2016 bà Nguyễn Thị Nga Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải phát biểu trực tiếp, khẳng
định vị trí đất gia đình tôi trùng với 8 hộ, là đất bỏ hoang nhiều năm không ai
chịu tôn tạo, đầu tư là hoàn toàn phù hợp với các quyết định của Chủ tịch UBND
huyện Tĩnh Gia năm 2010, quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa năm 2012.
Đối chiếu với các bút lục: (Từ BL 123 đến BL 171 và từ 215 đến 232) về
việc Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia lập dự toán ban hành quyết định bồi thường hỗ
trợ cho các hộ, thì rõ ràng Quyết định
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia là kết quả của
việc làm hồ sơ giả về công trình kiến trúc; khối lượng đào đắp; năng
suất tôm, cua, cá cho các hộ nhận tiền hỗ trợ và bồi thường trái pháp luật,
trong khi gia đình tôi khiếu kiện thì không giải quyết. Trước quyết định
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016, trên khu vực 8 hộ lấy tiền Quyết định số
1173/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia cũng đã bồi thường QSD đất cho
UBND xã Tĩnh Hải, khối lượng đào đắp bồi thường cho ông Vững và ông Du (8 hộ Sắt;
Sen; Hùng; Nhung; Nguyện; Nguyễn; Huấn; Trung không được bồi thường hỗ trợ vì
bỏ đất hoang bị UBND xã đã thu hồi năm 2006). Các hộ tái chiếm là lợi dụng
quyết định 1173 về việc UBND huyện Tĩnh Gia làm hồ sơ giả bồi thường đất cho
UBND xã Tĩnh Hải và cán bộ tư pháp Vũ Văn Dũng.
HĐXX tổng tóm tắt: "Khu vực đất ông Lê Văn Huy khiếu kiện theo hồ
sơ 299 năm 1987, tại tờ bản đồ số 01 và tờ bản đồ số 02 gồm thửa 01 và thửa 189
là diện tích đo bao nguyên thửa. Tổng diện tích 75.931 m2, loại đất
hoang, sổ mục kê ghi UBND xã. Theo hồ sơ địa chính năm 1998, tại tờ bản đồ số
12 gồm 15 thửa và tờ bản đồ số 7 là 08 thửa là đất nuôi tôm, sổ mục kê ghi UBND
xã. Theo trích lục chỉnh lý số 34/TLB do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
lập ngày 20/6/2016: Thửa 11 và thửa 25 ghi tên Lê Văn Sắt, thửa 72 chi tên Lê
Hữu Khuyên, thửa 31A và thửa 01 ghi tên Lê Năng Sen, thửa 32B, thửa 32F và thửa
15 ghi Lê Văn Hùng, thửa 10 ghi tên Lê Thị Nhung, thửa 21 ghi tên Lê Văn Nguyện,
thửa 32H và thửa 23 ghi tên Lê Năng Nguyễn, thửa 27 và thửa 31 ghi tên Lê Văn
Huấn, thửa 32A ghi tên Lê Ngọc Trung."
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 8 Nhận định của HĐXX đã thể hiện rõ về việc UBND huyện Tĩnh Gia
lập hồ sơ giả để bồi thường hỗ trợ tại Quyết định 8745/QĐ-UBND bởi các mâu
thuẫn:
+ Mục kê và bản đồ 299 năm
1987 là đo bao, là đất hoang đồng bằng, chủ sử dụng đất là UBND xã nhưng tại BL105
(QĐ huyện 20/1/2010) lời khai của cán bộ địa chính thì đất đê Đạo, đê làng, đê
Hoàng Hóa là đất 2 lúa. Người sử dụng đất là HTX Liên Vinh. Nhưng sổ thuế nông
nghiệp lại tách thửa cho ông Huy, và là đất canh tác có hiệu quả.
+ Mục kê
và bản đồ năm 1998 đất đê Đạo và đất đê Làng đã có tách thửa, là đất nuôi tôm,
người sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải là trái pháp luậtTại BL109 và 119 là các quyết định GQKN đều khẳng định 8 hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở nhưng ngày 20/6/2016 UBND huyện Tĩnh Gia đã làm giả hồ sơ chỉnh lý tách thửa không có căn cứ, sai phạm này không được đối chất làm rõ tại tòa.
Căn cứ tình hình sử dụng đất nêu trên (giải trình chi tiết 8), Quyết định Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia giải quyết khiếu nại ngày 20/1/2010 (BL 105), Quyết định 565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 (BL117) và Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải Nguyễn Thị Nga phát biểu trên: Phóng sự truyền hình Báo Diễn đàn Doanh nghiệp (chứng cứ có số thứ tự 34 đơn khởi kiện ngày 10/4/2017). rõ ràng trích lục chỉnh lý số 34/TLB do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất lập ngày 20/6/2016 lập không có căn cứ (làm giả hồ sơ). UBND huyện Tĩnh Gia căn cứ hồ sơ làm giả này, tiếp tục làm giả hiện trạng sử dụng đất về vật kiến trúc, nhà, hoa màu, sản lượng cá tôm để bồi thường hỗ trợ trên đất hoang nên: Ngoài việc làm chấm dứt quyền sử dụng đất của gia đình tôi thì Quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 còn vi phạm về việc làm giả chủ sử dụng đất qua các thời kỳ, làm giả hồ sơ bồi thường hỗ trợ trên đất hoang, làm giả sản lượng tôm cá (BL135). Làm giả hồ sơ bồi thường về đất giữa BL2 không bồi thường về đất cho 8 hộ trùng nhưng BL153 có bồi thường về đất cho 8 hộ trùng trên đất gia đình tôi.
HĐXX tổng tóm tắt: " một số hộ
nhận đất nuôi trồng thủy sản theo dự án 327 tại khu vực Đê Đạo, Đê làng có
khiếu nại đã được Chủ tịch UBND tỉnh GQKN tại Quyết định số 565/QĐ-UBND ngày
01/3/2012 trong đó đã nêu rõ nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của các hộ gia
đình."
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 9. Nhận định này mâu thuẫn nghiêm trọng với nội dung quyết định số
565, QĐ-UBND ngày 01/3/2012 tại BL119. Bản đồ 1998 và sổ mục kê ghi, đất
nuôi tôm, chủ sử dụng đất là UBND xã
Tĩnh Hải là hoàn toàn phù hợp với việc gia đình tôi khiếu kiện về việc UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất của gia đình
tôi. BL109 Ngày 20/1/2010
QĐGQKN của Chủ tịch UBND huyện khẳng định là đất thầu, hoàn toàn phù hợp với đơn
giao thầu trong hồ sơ vụ án.
Mặt khác,
căn cứ Điều 1, Quyết định 327 ngày 15/9/1992 thực hiện trên đất hoang, đối
chiếu với: Sổ thuế nông nghiệp năm 1992. Giấy giao thầu cho ông Vũ, ông Hùng,
ông Nguyễn. BL119 QĐ 565/QĐ-UBND ngày 1/3/2012 xác minh với UBND xã Tĩnh Hải thì: đê Làng đê Đạo là đất thầu
của xã do vậy UBND xã Tĩnh Hải xác định nguồn gốc đất xác định là đất 5% của
xã, xã lấy tiền đất, ông Du ông Vững lấy tiền hoa lợi không có tên 8 hộ. Xác minh theo quyết định chủ tịch huyện Tĩnh
Gia tại bút lục 109 QĐGQKN cho các hộ ngày 20/1/2010 đều quy định: Đê
Đạo trước năm 1993 là đất 2 lúa; không thực hiện được dự án 327 nên xã đã giao
thầu thời hạn 10 năm (1993-2003 hợp đồng thầu của ông Đỉnh); năm 1997-2001 các
hộ chuyển nhượng cho người trong xã ngoài huyện; năm 2001-2005 bỏ hoang; năm
2006 có 14 đơn tham gia đấu thầu trong đó có 11 đơn có 8 hộ thầu giai đoạn
1993-2003 tham gia, tái thầu khai thác tôm cá tự nhiên (thầu giữ cống), ông Du
trúng thầu 60 triệu đồng mỗi năm, sau đó UBND xã thu lại 1 phần của ông Du cho
ông Vững thầu. Các hộ (8 hộ) khiếu nại đòi đất nhưng không có loại giấy tờ gì
về đất. Kết quả thẩm tra xác minh của
Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tại BL118, xác định ông Lê Ngọc Dầu phó ban
chỉ đạo dự án 327, tại BL109 ông Dầu khẳng định dự án 327 không thực
hiện được và nêu ra căn cứ đê Đạo thầu 10 năm (theo hợp đồng của ông Đỉnh), do
không đạt mục tiêu di dãn dân theo dự án 327. Việc UBND huyện Tĩnh Gia làm giả
hồ sơ bồi thường hỗ trợ trên đất của gia đình tôi cho 8 hộ là có dấu hiệu cố ý
làm trái quy định; lợi dụng chức vụ quyền hạn; lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Với
các căn cứ, chứng cứ giao nộp trong hồ sơ vụ ánvề đất thầu thì rõ ràng quyết định 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia bồi thường hỗ trợ là không có căn
cứ, mà là làm hồ sơ giả để nhận tiền bồi
thường hỗ trợ lấy tiền chia nhau tại UBND xã Tĩnh Hải. Vi phạm này
không được đối chất làm rõ. Theo quyết định 8745 không bồi thường về đất cho 8 hộ nhưng phương án bồi thường tại BL153 có bồi thường về đất cho 8 hộ, HĐXX không đánh giá chứng cứ nên tình tiết phạm tội quan trọng này không được làm rõ.
- Về đất Tây Đường 7 của gia đình tôi, UBND xã Tĩnh Hải không giao nộp mục kê bản đồ 299 năm 1987. BL72, 92 và 102 bản đồ 1998 thể hiện đo bao nguyên thửa đất canh tác, không có sổ mục kê. BL84 bản đồ 2011 đất canh tác đường 7 đã bị tách thành nhiều thửa đất ở, không có sổ mục kê. Riêng thửa đất của gia đình tôi tranh chấp quyết liệt với UBND xã nên đo bao, chủ sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải và thôn Liên Vinh là trái pháp luật. Năm 2017 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất UBND huyện Tĩnh Gia cung cấp bản đồ và mục kê thì thửa đất của gia đình tôi đã bị tách thành 2 thửa, nhưng không ghi tên chủ sử dụng đất trong khi Sổ thuế quy định về đất quy chủ cho nông hộ thì ghi tên ông Lê Văn Huy.
- Đất Cồn Đồi BL315 bản đồ 299 năm 1987 UBND xã Tĩnh Hải giao nộp (không có sổ mục kê) thể hiện rõ về hình dạng (chữ L) thửa đất của gia đình tôi như mô tả trong đơn khiếu kiện, Đồi thửa 42 diện tích 430m2, thửa Cồn và diện tích trên bản đồ mờ ghi không rõ. Thửa giáp gianh với đất bà Hẹ phía nam đo bao do không xác định chủ sử dụng đất. BL 326 bản đồ năm 1998 đất Cồn, Đồi đối chiếu với sơ đồ mà bà hẹ và ông Huệ ký mốc giới giáp gianh đất của bà Hẹ và ông Huệ thì đất Cồn, Đồi là thửa 214 và thửa 215. BL329 bản đồ UBND xã Tĩnh Hải làm giả năm 2016, căn cứ Biên bản ngày 10/5/2016 thì đất Cồn bị lấn chiếm, đất Đồi chỉ còn 136,9 m2. thửa giáp gianh phía nam đo bao năm 1998 bị chia thành nhiều thửa cho nhiều người không có đất.
- Đất đê Làng, đất Cồn Đồi,
đất Tây đường 7 Chon sâu 207m2. Chon gàng 123 m2. Cây gạo
200m2. Mục đồng 276 m2. Đê Châm 1500m2. Đê ba
mẫu 300m2. Tây đường bảy 300 m2 Bản đồ 299 năm 1987 ghi
người sử dụng đất là HTX thôn Liên
Vinh. Trong khi căn cứ pháp lý là sổ thuế do Bộ tài chính phát hành quy
định đất quy chủ cho nông hộ do UBND xã Tĩnh Hải lập thì lại ghi tên ông Huy, đất
khiếu kiện có các hộ liền kề lập sơ đồ hiện trạng ký giáp gianh với ông Huy
trong hồ sơ vụ án. Do vậy HĐXX khẳng định tôi không xác định được vị trí, ranh
giới các thửa đất tranh chấp là không đúng.
Năm 1998 bản đồ và sổ mục kê
ghi: đất nuôi tôm, chủ sử dụng đất là UBND xã Tĩnh Hải là trái pháp luật. BL109
Ngày 20/1/2010 QĐGQKN của UBND huyện khẳng định là đất thầu là phù hợp với
đơn giao thầu trong hồ sơ vụ án. BL117-119 ngày 1/3/2012 QĐGQKN của UBND
tỉnh cũng không xác định được chủ sử dụng đất. Đầu năm 2016 chủ tịch UBND xã
Tĩnh Hải phát biểu công khai trên thông tin đại chúng (Báo diễn đàn Doanh
nghiệp) là đất bỏ hoang không ai chịu đầu tư cải tạo.
Căn cứ Điều 1, Quyết định 327
ngày 15/9/1992, đối chiếu với sổ thuế nông nghiệp mà gia đình tôi hoàn thành
nghĩa vụ thuế nông nghiệp đến cuối năm 1992, thì việc UBND huyện Tĩnh Gia khẳng
định giao đất cho 8 hộ theo dự án 327 là không có cơ sở, vì đất dự án 327 phải
thực hiện trên đất hoang. Đối chiếu sổ thuế nông nghiệp nộp thuế đến cuối năm
1992 là hoàn toàn phù hợp với hồ sơ giao thầu cho ông Vũ; ông Hùng; ông Nguyễn
có trong hồ sơ vụ án. Với đối chiếu này thì chắc chắn UBND huyện Tĩnh Gia đã
làm giả hồ sơ từ đất thầu, đất bỏ hoang để bồi thường hỗ trợ đất dự án 327 cho
8 hộ theo quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016, của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia.
- Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia
không xác định được quyền sử dụng đất cho chủ sử dụng đất tại vị trí khiếu kiện,
trong khi gia đình tôi khiếu kiện lại không được giải quyết, đó là lý do khi
đường Bắc Nam 2 làm xong mà quyết định 8745 làm giả không bồi thường về đất
nhưng phương án do UBND huyện Tĩnh Gia lập lại có bồi thường về đất.
HĐXX tổng tóm tắt: "Ông Lê Minh Vũ không cung cấp được bất cứ tài
liệu, chứng cứ gì để chứng minh ông Lê Văn Huy có quyền sử dụng các thửa đất
nêu trên, Sổ thuế nông nghiệp do ông Vũ xuất trình không phải là giấy tờ về đất
mà chỉ là sổ thuế nông nghiệp theo khoán 10 trước năm 1993. Sau khi nghị định
64 của Chính phủ về việc giao đất sản xuất lâu dài cho hộ nông dân thì sổ này
không được sử dụng nữa. Do đó việc ông Lê Văn Huy yêu cầu hủy quyết định phê
duyệt bồi thường số 8745 không được chấp nhận."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 10. Sổ thuế nông
nghiệp do Tổng cục thuế, Bộ tài chính phát hành do UBND xã ghi sổ, số sổ trùng
với sổ lưu của xã. Sổ quy định về đất quy chủ cho nông hộ, căn cứ ghi sổ gồm tờ
khai; sổ giao khoán; giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất của nông hộ; mọi thông
tin ghi chép thực hiện theo Pháp lệnh. Do vậy sổ thuế nông nghiệp đủ điều kiện được
thay thế tất cả các loại giấy tờ về đất tại thời điểm sử dụng đất.
Đất của gia đình tôi đủ điều kiện cấp giấy CNQSD đất theo Luật đất đai
1993 và nghị định 64, năm 1993. Năm 1993 - 1994 UBND xã Tĩnh Hải chiếm đất của
gia đình tôi, cuối năm 1994 Chủ tịch huyện cấp giấy CNQSDĐ đợt đầu cho hộ gia
đình. Do UBND xã Tĩnh hải cố ý chiếm đất của gia đình tôi nên UBND xã Tĩnh Hải
tìm cách hủy bỏ hồ sơ về quyền sử dụng đất của gia đình tôi. Do gia đình tôi
tranh chấp đất với UBND xã thì không thể căn cứ hồ sơ một phía mà UBND xã cung
cấp. Để đánh giá khách quan phải căn
cứ sổ thuế nông nghiệp của gia đình tôi mà UBND xã lập và hồ sơ quản lý cấp
huyện và cấp tỉnh để xác minh, bởi UBND xã Tĩnh Hải và gia đình tôi đều
là đương sự vụ tranh chấp. Việc gia đình tôi đưa ra nhân chứng, vật chứng là
các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất mâu thuẫn với tài liệu của UBND xã (huyện
không giao nộp tài liệu quản lý đất đai). Các mâu thuẫn không được đối chất làm
rõ trước HĐXX do vắng mặt người bị kiện và người có nghĩa vụ liên quan là không
đúng. Trước HĐXX tôi đã giải trình về
nhân chứng, vật chứng để chứng minh quyền sử dụng đất. Còn UBND huyên Tĩnh Gia
không có tài liệu giao nộp, mà chỉ dựa vào một số tài liệu trái pháp luật của
thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải để làm căn cứ. Vậy mà HĐXX vẫn bác bỏ yêu cầu hủy
quyết định 8745 là không khách quan.
+ Nhân chứng xác nhận đất cho
gia đình tôi có: ông Quang; ông Bút; ông Hồng; bà Ninh; bà Thiết là những người
làm ruộng liền kề trước năm 1993 với gia đình tôi đã cùng nhau lập sơ đồ ký mốc giới, đông, tây, nam, bắc giáp ranh với gia
đình tôi, cùng với bản các hộ tự khai đã giao nộp trong hồ sơ vụ án.
+ Vật chứng có căn cứ pháp lý
gồm: Sổ thuế nông nghiệp phản ánh toàn bộ diện tích ruộng đất quy chủ
cho nông hộ quản lý sử dụng do Tổng cục thuế, Bộ tài chính phát hành,
vị trí thửa đất, diện tích, mức thuế là do UBND xã Tĩnh Hải lập ghi rõ ràng
trong sổ; Đất khai hoang là 3 héc ta tôi tự khai trong đơn, ngày 28/8/1994 được
Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, ký tên đóng
dấu trên phần tự khai 3 héc ta đất khai hoang các hộ làm ruộng liền kề
có ký xác nhận vị trí, mốc giới rõ ràng giao nộp trong hồ sơ vụ án; Về 3 héc ta
đất khai hoang và 67 thước đất của ông cha để lại, ngày 26/9/1996 Thanh tra huyện Tĩnh Gia xác minh cho gia đình
tôi là có.
Với chứng cứ vừa nêu thì việc
UBND xã Tĩnh Hải không xuất trình được hồ sơ thu hồi đất và hồ sơ giao đất cho
8 hộ là UBND xã Tĩnh Hải vi phạm: Điều
1; khoản 1; khoản 3; Điều 3; khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 13 Nghị
định 64 ngày 27/9/1993.
Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 403 Luật
dân sự số 44-L/CTN ngày 28/10/1995 thì Sổ thuế nông nghiệp năm 1992; Đơn xin
thầu đê có kê khai 3 héc ta đất khai hoang của gia đình có xác nhận của Chủ
tịch UBND xã Tĩnh Hải ngày 28/8/1994; Kết luận thanh tra huyện Tĩnh Gia tại Văn
bản số 01/QĐ-TT TG ngày 26/9/1996 thì các loại giấy tờ này là chứng cứ về nguồn
gốc và quyền sử dụng đất của gia đình tôi mà Luật 44-L/CTN quy định, là chứng
cứ không cần phải chứng minh.
Căn cứ Luật Tố tụng hành chính 2015.
Điều 79. Khoản 2 quy định, những tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh đó là: “Một bên đương sự
thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà
bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự kiện, tài liệu,
văn bản đó không phải chứng minh. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng
thì sự thừa nhận hoặc không phản đối của người đại diện được coi là sự thừa
nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện”. Như vậy với các
nhân chứng mặt, vật chứng trình bày tại phiên tòa. UBND huyện Tĩnh Gia không có
tài liệu, lời nói phản tố thì HĐXX phải áp dụng Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định tại Điều 79 khoản 2 để công nhận chứng cứ hợp pháp cho gia đình tôi.
HĐXX tổng tóm tắt: "Tại bản tự khai ngày 25/5/2017 và quá trình
giải quyết tại Tòa án, Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia trình bày:
Khu đất Đê Hoàng Hóa và Đê Làng do Hợp tác
xã thôn Liên Vinh quản lý, thực hiện Luật đất đai năm 1993, một số diện tích đã
được giao cho các hộ quản lý, một số diện tích nhiễm mặn Nhà nước có chủ trương
giao đất nuôi trồng thủy sản theo dự án 327 năm 1993."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 11. UBND xã Tĩnh
Hải giao đất cho các hộ theo dự án 327 là không đúng vì trong hồ sơ vụ án các
hộ không có bất cứ loại giấy tờ gì về việc UBND xã Tĩnh Hải giao đất. Mặt khác
tại BL109 và 119 QĐ-GQKN của huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa khẳng định
các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở, nên quyết định 8745 là làm giả.
HĐXX tổng tóm tắt: "Từ trước
đến nay gia đình ông Huy không sử dụng đất, không có giấy tờ gì chứng minh về
quyền sử dụng đất và cũng không nêu được vị trí, ranh giới, kích thước các thửa
đất. không sử dụng nên UBND xã đã giao lại cho ông Lê Văn Bụt, tháng 1/1999 ông
Bụt đã chuyển nhượng cho ông Lê Năng Nguyễn, theo bản đồ năm 2011 là thửa 223,
diện tích 4.806 m2, chủ sử dụng là ông Lê Năng Nguyễn. Khi thực hiện
dự án đường Bắc Nam 2 ông Lê Năng Nguyễn là người được bồi thường. Về số tiền
400.000 đ ông Vũ nộp chưa được nhận lại và tiền đền bù do UBND xã chặt cây cối
năm 1995 đã được giải quyết tại Quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của
Thanh tra huyện Tĩnh Gia, qua kiểm tra sổ sách Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải không
được bàn giao công nợ nên UBND xã Tĩnh hải không có cơ sở để giải quyết.
Nguyên đơn giải trình chi
tiết 12. Gia đình tôi không sử dụng đất là vì UBND xã Tĩnh hải chiếm đoạt,
cản trở thực hiện quyền sử dụng đất, mặc dù có đầy đủ nhân chứng làm ruộng liền
kề xác nhận và các loại giấy tờ về đất giao nộp trong hồ sơ vụ án. Việc UBND xã
xác nhận cho ông Bụt chuyển nhượng đất thầu trả tiền hàng năm cho ông Nguyễn
trên đất nhà tôi tại vị trí đất có đơn khiếu nại là vi phạm khoản 3 Điều 8 Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999.
Về sơ đồ hiện trạng gia đình tôi sử dụng tại thời điểm năm 1993 mà gia đình tôi
và các hộ liền kề ký giáp ranh, tôi đã giao nộp cho Tòa án ngày 17/7/2017;
2/8/2017; ngày 25/8/2017 hoàn toàn phù hợp với bản đồ địa chính của UBND huyện
Tĩnh Gia tại BL71 (bản đồ đê 1998); BL72 (bản đồ tây đường 7-1998);
BL73 (bản đồ đê, cồn đồi 2011); BL89 (bản đồ đê 1998); BL90 (bản
đồ đê 1998); BL84 (bản đồ đất tây đường 7-2011); BL315 (bản đồ cồn
đồi 1998); BL321(bản đồ đê 1998); BL326 (bản đồ cồn đồi 1998).
Như vậy việc UBND xã Tĩnh Hải khẳng định tôi không nêu được vị trí ranh
giới thửa đất là không đúng với chứng cứ giao nộp trong hồ sơ vụ án. Về việc
bồi thường cây bị chặt phá, năm 2010 bà Nguyễn Thị Nga đang là kế toán xã, đã
từng chứng kiến ông Lê Trọng Hồng Chủ tịch UBND xã chỉ đạo thẩm định giá để bồi
thường cây chặt năm 1995 cho gia đình tôi, chưa giải quyết chi trả thì ông Hồng
chuyển công tác. Bà Nga lên làm chủ tịch khẳng định với tòa là không bàn giao
công nợ, không biết vụ việc và gia đình tôi chưa từng đòi bồi thường là không
đúng.
HĐXX tổng tóm tắt: "Người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm các ông bà: Lê Văn Sắt; Lê Năng Sen; Lê Văn
Hùng; Lê Thị Nhung; Lê Văn Nguyện; Lê Năng Nguyễn; Lê Văn Huấn; Lê Ngọc Trung
có đơn và bản tự khai trình bày: Khoảng năm 1988 đến năm 1993 các gia đình cùng
nhau khai hoang tại bờ đê Hoàng Hóa thuộc địa phận xã Tĩnh hải, huyện Tĩnh Gia
và được Nhà nước giao đất theo dự án 327, .... Việc ông Lê Văn Huy ủy quyền cho
con trai là ông Lê Minh Vũ khởi kiện Quyết định phê duyệt bồi thường số
8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của UBND huyện Tĩnh Gia là không có cơ sở, đề nghị
Tòa xét xử theo quy định của pháp luật."
Nguyên đơn giải trình chi tiết 13. Lời khai của 8
hộ mâu thuẫn với quyết định GQKN tại BL 109 và BL119 bởi đơn và QĐ-GQKN
của các hộ không đề cập gì đến việc các hộ khai hoang đất tại đê Hoàng Hóa, mâu
thuẫn không được làm rõ do các hộ vắng mặt cả trong đối thoại và xét xử nên mâu
thuẫn không được làm rõ. Các BL104 đến 120 đều là các quyết định năm
2010 Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia GQKN về việc 8 hộ đòi đất dự án 327, nhưng
các Quyết định đều ghi rõ, 8 hộ đó đòi bồi thường đất dự án 327 là không có cơ
sở nên QĐ 8745 làm giả chỉ hỗ trợ không bồi thường về đất nhưng BL153 cả
bồi thường đất và hỗ trợ cho 8 hộ thì việc hủy quyết định 8745 của chủ tịch
UBND huyện Tĩnh Gia là có căn cứ và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm đối với
người có thẩm quyền trong việc làm giả hồ sơ nhận tiền bồi thường trái pháp
luật.
Như vậy QĐ 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia là quyết định trái pháp luật, mang
tính chất cố ý, rất nghiêm trọng "vi phạm kép" đó là: Quyết định làm
đường trên đất tranh chấp - Lập hồ sơ giả ban hành quyết định hỗ trợ cho 8 hộ
trên đất gia đình tôi đang có khiếu kiện - Ban hành quyết định hỗ trợ cho 8 hộ
bỏ hoang đất từ năm 1999-2005 mà Các quyết định của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh
Gia năm 2010, quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa năm 2012 và bài phát
biểu trực tiếp của Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, Nguyễn Thị Nga trên Báo diễn đàn
Doanh nghiệp khẳng định - Ban hành quyết định bồi thường hỗ trợ không xác định
được quyền sử dụng đất cho chủ sử dụng đất, trong khi gia đình tôi khiếu nại
liên tục trong thời gian dài có đầy đủ nhân chứng, vật chứng thì không xem xét
giải quyết.
Kháng cáo
kết luận của Hội đồng xét xử (HĐXX):
HĐXX kết luận:"Những
người làm chứng gồm các ông bà: Lê Quang Hồng, Lê Thị Ninh, ông Lê Hữu Bút, ông
Lê Văn Quang có bản tự khai thống nhất như sau: Đất của các gia đình ông Hồng,
bà Ninh, ông Bút, ông Quang nằm giáp phía Bắc và phía Nam đất của gia đình ông
Huy tại Đê Làng. Năm 1994 UBND xã Tĩnh Hải thu toàn bộ đất tại Đê làng cho thầu
nuôi tôm với thời hạn 20 năm (1994-2014), các ông bà đã có đơn khiếu nại đòi
đất nhưng không được UBND xã Tĩnh hải và UBND huyện Tĩnh Gia giải quyết. Tất cả
các ông bà đã ký vào sơ đồ "Hiện trạng Đê làng, Đê Mới và Đê Hoàng Hóa
trước năm 1993" do ông Lê Minh Vũ lập để công nhận vị trí liền kề và cam
đoan khu đất của ông Huy liền kề với khu đất của các ông, bà là có thật, việc
ông Huy khởi kiện đòi đất là đúng đề nghị Tòa xem xét giải quyết.
Tòa án đã tiến hành kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ và tiến hành đối thoại, nhưng các
bên không thống nhất được với nhau, do vậy vụ án được đưa ra xét xử theo thủ
tục sơ thẩm".
1. Kháng cáo kết luận ý thứ nhất: Theo đơn bổ sung
ngày 1/7/2017 tôi có bổ sung người có nghĩa vụ liên quan là ông Lê Văn Quang;
ông Lê Văn Bút; ông Lê Quang Hồng; bà Lê Thị Ninh nhưng Thẩm phán không đồng ý
nên các ông bà không được triệu tập đối thoại làm rõ.
HĐXX kết luận: "Tại phiên
tòa, người khởi kiện giữ nguyên nội dung khởi kiện. Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phát biểu quan điểm:"
2. Kháng cáo kết luận ý thứ hai: HĐXX khẳng định
người khởi kiện giữ nguyên nội dung khởi kiện do vậy HĐXX đã không xem xét các
đơn đề ngày 28/12/2016, nhật ấn bưu điện ngày 2/1/2017. Đơn đề ngày 2/3/2017,
nộp ngày 2/3/2017. Đơn đề ngày 12/4/2017 nộp ngày 12/4/2017. Đơn bổ sung thêm
yêu cầu khởi kiện đơn đề ngày 16/8/2017, giao nộp ngày 25/8/2017. Đơn đề ngày
12/9/2017, giao nộp ngày 12/9/2017 là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vụ án cần xét xử lại.
HĐXX nhận định: "Về việc
tuân thủ pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân
thủ đầy đủ, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục từ khi thụ lý, tổ chức đối thoại,
quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến tại phiên tòa sơ thẩm; người tham gia tố
tụng đã được thực hiện đầy đủ, đảm bảo đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo
quy định của Luật tố tụng hành chính (sau đây viết tắt là TTHC)"
3. Kháng cáo kết luận ý thứ
ba: HĐXX kết luận như vậy là không đúng do:
+ Tòa án không hướng dẫn sửa
đổi bổ sung đơn theo quy định; kéo dài thời hạn thụ lý 4 tháng 9 ngày, quá hạn mà không có lý do chính đáng.
+ Đối thoại và xét xử vắng mặt
người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên các mâu thuẫn không
được làm rõ, là nguyên nhân HĐXX ra bản án không đúng.
HĐXX nhận định: Về nội dung: Đề
nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 116; điểm g, khoản 1
Điều 143 của luật TTHC: Đình chỉ giải quyết yêu cầu hủy quyết định GQKN số
01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của Thanh tra
huyện Tĩnh Gia và yêu cầu tuyên bố hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND
xã Tĩnh Hải từ năm 1993-1995 đối với gia đình ông Lê Văn Huy; bác yêu cầu hủy
Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của UBND huyện
Tĩnh Gia và miễn án phí hành chính sơ thẩm cho ông Lê Văn Huy theo quy định của
pháp luật
4. Kháng cáo kết luận ý thứ
tư:
- HĐXX đình chỉ giải quyết yêu
cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG là đình
chỉ nội dung khởi kiện bổ sung theo hướng dẫn theo định hướng của Thẩm phán.
Theo đơn khởi kiện đầu tiên ngày 28/12/2016 tôi không yêu cầu hủy quyết định
01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của thanh tra huyện Tĩnh Gia, mà nêu nội dung xác
minh với tư cách là nguồn chứng cứ. Khi Thẩm phán hướng dẫn (bằng lời nói) cho
tôi sửa đơn, Thẩm phán có hỏi tôi: "anh cho rằng quyết định 01/QĐ-TTTG là
không đúng thẩm quyền thì anh yêu cầu hủy hay để lại phải yêu cầu rõ". Do
đó trong đơn sửa đổi ngày 10/4/2017 tôi có thêm 2 yêu cầu đó là: Đề nghị
bảo lưu phần kết quả xác minh tại quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của Phó
thanh tra huyện Tĩnh Gia để làm căn cứ xem xét vụ việc và yêu cầu Hủy quyết
định GQKN số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của thanh tra huyện Tĩnh Gia. Việc đình chỉ giải quyết yêu cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG là việc chấm dứt
truy cứu trách nhiệm đối với người ra quyết định trái pháp luật, còn việc gia
đình tôi đòi tài sản là bất động sản bị chiếm đoạt thì không ảnh hưởng vì quyết
định này không phải là quyết định giải quyết khiếu nại mà pháp luật tại thời
điểm đó quy định. Đối với yêu cầu xin bảo lưu kết quả xác minh của thanh tra
huyện HĐXX chưa có ý kiến gì.
- HĐXX đình chỉ giải quyết yêu
cầu tuyên bố hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải từ năm
1993-1995 đối với gia đình ông Lê Văn Huy là không đúng. Bởi vì tuyệt đối tôi không khởi kiện hành vi thu
hồi đất trái pháp luật, mà có yêu cầu trả lại đất chiếm đoạt là áp dụng Điều 34
và 35 Luật TTHC. Do đó việc HĐXX tự đưa vào hành vi thu hồi đất trái
pháp luật là hành vi hành chính để áp dụng thời hiệu, chấm dứt quyền đòi tài
sản của gia đình tôi là không đúng.
- HĐXX bác yêu cầu hủy Quyết
định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của chủ tịch UBND
huyên Tĩnh Gia, thể hiện HĐXX không đánh giá chứng cứ bởi vì QĐ 8745 có những
vi phạm như sau:
+ Quyết định 8745 là quyết định có mục đích làm đường trên đất tranh chấp
chưa giải quyết, làm chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi.
+ Quyết định 8745 làm giả không bồi thường về đất cho 8 hộ, nhưng tại BL153
phương án có bồi thường về đất cho 8 hộ.
+ Quyết định 8745 làm giả để hỗ trợ cây cối hoa màu (vật nuôi), nhà, vật
kiến trúc trên đất hoang. Chứng cứ có số thứ tự 34 giao nộp theo đơn khởi kiện
ngày 10/4/2017 đó là lời khẳng định chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải trên truyền hình
về đất hoang
+ Quyết định 8745 làm giả để hỗ trợ cho người không sử dụng đất BL109
và 119 đó là các quyết định GQKN của chủ tịch UBND huyện và tỉnh.
+ Quyết định làm giả từ hồ sơ đất thầu hết thời hạn sang mục đích sử dụng
đất dự án 327 căn cứ BL281-286 trong hồ sơ vụ án.
Với các vi phạm đó, việc HĐXX bác yêu cầu hủy quyết định 8745 là không
đúng và có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp.
NHẬN ĐỊNH CỦA
TÒA ÁN
HĐXX nhận định: "Căn cứ
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; ý kiến của Kiểm sát viên và các bên
đương sự"
2. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Tài liệu chứng
cứ mâu thuẫn với nhau không được đánh giá thẩm tra, xem xét tại phiên tòa đó
là: Sổ thuế nông nghiệp chủ sử dụng
đất là ông Lê Văn Huy nhưng mục kê của xã chủ sử dụng đất lại là UBND xã; hồ sơ
giao đất thầu hết thời hạn nhưng lại làm hồ sơ bồi thường đất dự án 327; phương
án có bồi thường về đất nhưng quyết định 8745 lại không bồi thường về đất;
Yêu cầu trả lại đất chiếm đoạt tại 8 vị trí khác nhau về diện tích, mục đích sử
dụng đất, loại đất không được làm rõ cho từng vị trí mà chỉ nêu chung chung; nguyên đơn và bị đơn tranh chấp nhau về căn
cứ pháp lý, đó là việc nguyên đơn căn cứ Điều 10 Pháp lệnh khiếu nại
1991, bị đơn căn cứ Điều 11 Pháp lệnh khiếu nại 1991 không được làm rõ vv...
Trong phiên xét xử chỉ có ý kiến của người khởi kiện và người làm chứng, do
vắng mặt người bị và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên các mâu thuẫn
không được đối chất làm rõ. Do vậy việc HĐXX nhận định có ý kiến của các bên
đương sự là không đúng.
HĐXX nhận định: "Về đối tượng
vụ án hành chính: Ông Lê Văn Huy có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố QĐGQKN số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 của Thanh
tra huyện Tĩnh Gia và Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 của UBND huyện Tĩnh Gia là trái pháp luật, đồng thời yêu cầu hủy các
quyết định nêu trên. Đây là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND tỉnh theo khoản 2 Điều 3; khoản 4 Điều 32 Luật TTHC. Đối với yêu cầu
xem xét hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải từ năm 1993 đến
năm 1995 với gia đình ông Lê Văn Huy có liên quan trong vụ án, song cần xem xét
về thời hiệu."
3. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án
- HĐXX nhận định nhầm yêu cầu giải quyết thành đối tượng khởi kiện, bởi
vì trong đơn khiếu kiện tôi có yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải trả lại đất chiếm đoạt
là căn cứ Điều 34 và Điều 35 Luật TTHC. Tuyệt
đối tôi không khiếu kiện hành vi thu hồi đất trái pháp luật, do vậy
việc HĐXX nhầm đối tượng chiếm đoạt thành đối tượng vụ án hành chính (thu hồi
trái) để áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính chấm dứt đòi tài sản là
không đúng.
HĐXX nhận định: "Về thời
hiệu khởi kiện: Tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật TTHC quy định: "01 năm kể
từ ngày nhận được, biết được Quyết định hành chính, hành vi hành chính".
Theo đó, Quyết định GQKN số 01/QĐ-TTTG của Thanh tra huyện Tĩnh Gia ban hành
ngày 26/9/1996 và hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải diễn
ra từ năm 1993-1995 đối với gia đình ông Huy (nếu có) đến nay đã hết thời hiệu
khởi kiện. Việc ông Lê Minh Vũ cho rằng gia đình ông liên tục khiếu nại đến các
cơ quan có thẩm quyền nhưng chưa được giải quyết không phải là sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan nên không tính vào thời hiệu khởi kiện. Do đó
Hội đồng xét xử sơ thẩm đình chỉ giải quyết một phần đơn khởi kiện (theo điểm a
khoản 2 Điều 116; điểm g khoản 1 Điều 143 Luật TTHC). Đối với Quyết định phê
duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND của UBND huyện Tĩnh Gia ban hành ngày
08/12/2016, ông Vũ nộp đơn khởi kiện ngày 12/4/2017 nên thời hiệu vẫn còn."4. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Theo đơn khởi kiện ngày 28/12/2016 tôi không khởi kiện quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996, trong hướng dẫn sửa đơn Tòa án định hướng cho tôi yêu cầu hủy quyết định 01/QĐ-TTTG.
- Việc HĐXX đình chỉ giải quyết hành vi thu hồi đất trái pháp luật là không có căn cứ, vì theo đơn khởi kiện và đơn sửa đổi bổ sung khởi kiện tôi chỉ yêu cầu giải quyết hành vi của UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt đất. Hành vi chiếm đoạt không phải là hành vi hành chính do vậy HĐXX thay hành vi chiếm đoạt thành hành vi thu hồi để chấm dứt việc gia đình tôi đòi tài sản là không đúng. Việc tôi yêu cầu giải quyết hành vi chiếm đoạt trong vụ án hành chính là áp dụng Điều 34 và 35 Luật TTHC 2015. Việc gia đình tôi đòi tài sản là bất động sản (đất và tài sản trên đất), HĐXX đình chỉ một phần với việc đòi tài sản là không đúng.
- Tôi nêu lên quá trình khiếu nại kéo dài và giao nộp các Văn bản của tỉnh, Trung ương chỉ đạo chủ tịch UBND huyện giải quyết khiếu nại không phải là chứng minh kéo dài thời hiệu khởi kiện. Mà là chứng minh về khiếu kiện kéo dài không giải quyết, dù vậy từ năm 2013 trở về trước, tôi không khởi kiện vụ án hành chính là vì không muốn ảnh hưởng đến hình ảnh chính quyền và tránh được sự kỳ thị của cán bộ. Do khiếu nại không giải quyết đã ban hành quyết định làm đường trên đất của gia đình tôi làm chấm dứt quyền và lợi ích của gia đình tôi nên tôi phải khởi kiện.
- Hành vi thu hồi đất trái pháp luật là hành vi hành chính nhưng không có căn cứ về việc tôi khởi kiện UBND xã Tĩnh hải hành vi này. Trong đơn tôi khiếu kiện hành vi của UBND xã Tĩnh Hải là hành vi chiếm đoạt tài sản quyền sử dụng đất và tài sản găn liền trên đất là cây bị chặt phá. Căn cứ Bộ luật dân sự 2015, Điều 3 khoản 4 quy định: "Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác" do vậy việc HĐXX áp dụng thời hiệu Luật TTHC quy định đối với việc tôi đòi tài sản là sai.
+ Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 1, khoản 2 thì Quyết định 8745/QĐ-UBND của chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, thời hiệu xác lập thời hiệu khởi kiện ngày 08/12/2016. Đối tượng khởi kiện này HĐXX không đánh giá chứng cứ, tài liệu và cũng không được đối chất làm rõ tại phiên tòa. Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 3, khoản 4 thì Hành vi hành chính của UBND huyện Tĩnh Gia do không giải quyết đơn khiếu nại, thời hiệu xác lập hành vi khởi kiện là ngày 28/3/2016 và 28/4/2016 . Đối tượng khởi kiện này HĐXX không xem xét tại phiên tòa. Căn cứ Luật TTHC 2015 quy định tại Điều 3 khoản 3, khoản 4 thì Hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải, xét nguồn gốc đất đánh tráo khái niệm, viện dẫn tự bào chữa không có căn cứ và không kiểm kê bồi thường, thời hiệu xác lập hành vi khởi kiện là ngày 10/5/2016. Đối tượng khởi kiện này HĐXX không xem xét tại phiên tòa.
+ Căn cứ đơn khởi kiện và đơn sửa đổi bổ sung thì không có đối tượng khởi kiện vụ án hành chính đối với hành vi thu hồi đất trái pháp luật của UBND xã Tĩnh Hải diễn ra từ năm 1993-1995 đối với gia đình ông Huy do vậy HĐXX áp dụng thời hiệu của Luật TTHC đối với yêu cầu đòi tài sản quyền sử dụng đất là không đúng. Gia đình tôi đòi tài sản là bất động sản, đó là Quyền sử dụng đất bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt và cây gắn liền trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chặt phá. Việc HĐXX tách đòi tài sản thành hai phần, để đình chỉ một phần việc đòi tài sản là quyền sử dụng đất là HĐXX vi phạm Bộ luật dân sự quy định tại Điều 3 khoản 4.
HĐXX nhận định: "Về căn cứ ban hành Quyết định phê duyệt bồi thường số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của UBND huyện Tĩnh Gia: Tại khoản 1 Điều 74 Luật đất đai năm 2013 quy định: "Người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại điều 75 của luật này thì được bồi thường"; khoản 1 Điều 75 Luật đất đai 2013 quy định: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhạn quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất (Sau đây gọi là giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để dược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất...". Như vậy điều kiện để được bồi thường phải là người có giấy tờ hoặc là người đang sử dụng đất."
5. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 74 và khoản 1 Điều 75 Luật đất đai 2013 áp dụng cho việc UBND huyện Tĩnh Gia ban hành Quyết định 8745 bồi thường cho các hộ là cố ý làm trái quy định. Vì trong hồ sơ vụ án 8 hộ không có bất cứ loại giấy tờ gì về đất, nêu rõ tại BL109 và BL119, QĐGQKN của UBND huyện Tĩnh Gia và tỉnh Thanh Hóa đều khẳng định các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở. Về phía chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải, năm 2016 cũng khẳng định trên truyền hình Báo Diễn đàn Doanh nghiệp về việc đất bị bỏ hoang không ai đầu tư, cải tạo.
HĐXX nhận định: "Theo ông Lê Minh Vũ, nguồn gốc đất của 08/13 hộ được phê duyệt bồi thường theo quyết định 8745 là do gia đình ông khai hoang trước năm 1980 tại khu vực Đê Đạo, Đê, Hoàng Hóa, Đê Làng, và 67 thước tại hón tre là đất của ông cha ông, nhưng năm 1993 đến năm 1995 đã bị UBND xã Tĩnh Hải thu hồi trái pháp luật giao cho người khác. Tuy nhiên toàn bộ hồ sơ quản lý đất đai các thời kỳ tại khu vực ông Huy khiếu kiện là đất nông nghiệp do Hợp tác xã thôn Liên Vinh và UBND xã Tĩnh Hải quản lý không có tên hộ ông Lê Văn Huy, năm 1993 được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng thủy sản theo Quyết định 327/CP ngày 15/9/1992, của Chính phủ, từ năm 1993 đến nay gia đình ông Huy không sử dụng đất tại khu vực nêu trên"
6. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX nhận định đất đê đạo, đê Hoàng Hóa, đê Làng và Hón Tre do thôn Liên Vinh, xã Tĩnh Hải quản lý là phù hợp với quy định, nhưng HĐXX không truy vấn vi phạm của UBND huyện về việc người sử dụng đất trong sổ thuế nông nghiệp là ông Lê Văn Huy nhưng hồ sơ quản lý đất đai lại ghi người sử dụng đất là UBND xã. Với các chứng cứ là sổ thuế nông nghiệp, giấy có xác nhận của chủ tịch UBND xã trên diện tích tự khai 3 héc ta và giao đất thầu ngày 28/8/1994 và kết quả xác minh của Thanh Tra huyện Tĩnh Gia ngày 26/9/1996 của gia đình tôi đã mâu thuẫn với nhận định của HĐXX đó là lý do bản án không khách quan.
- Căn cứ BL227; BL 281-282-283-284-285-286 là hồ sơ giao thầu đất thì việc HĐXX khẳng định giao đất 327 cho các hộ là sai. Việc gia đình tôi không sử dụng đất là do UBND xã chiếm, cản trở thực hiện quyền sử dụng đất. Theo hồ sơ quản lý đất của xã giao nộp cho tòa án thì các thời kỳ đều ghi chủ sử dụng là UBND xã là hoàn toàn phù hợp với việc gia đình tôi khiếu kiện về việc UBND xã chiếm đoạt đất của gia đình tôi. HĐXX khẳng định, năm 1993 được UBND xã Tĩnh Hải giao cho các hộ nuôi trồng thủy sản theo Quyết định 327/CP ngày 15/9/1992, của Chính phủ. Nhận định này mâu thuẫn với đất nông nghiệp canh tác có hiệu quả theo sổ thuế nông nghiệp, giấy giao thầu, thì rõ ràng 8 hộ là người tiêu thụ đất chiếm đoạt của UBND xã đó là:
+ Thứ nhất: Dự án 327 chỉ thực hiện trên đất hoang, đã mâu thuấn với Sổ thuế nông nghiệp của gia đình tôi hoàn thành nghĩa vụ thuế đến vụ 10 năm 1993 thể hiện đất canh tác có hiệu quả. Do vậy việc giao đất dự án 327, cho của gia đình tôi cho các hộ vào năm 1993 là không có căn cứ.
+ Thứ hai: Căn cứ giấy giao thầu cho ông Lê Văn Vũ; ông Lê Văn Hùng; ông Lê Văn Bụt (chuyển nhượng cho Lê Năng Nguyễn) tại các BL227; BL 281-282-283-284-285-286 thì khẳng định việc lấy đất của ông Huy giao thầu thu tiền hàng năm, có thời hạn rồi làm giả hồ sơ ban hành quyết định 8745 bồi thường hỗ trợ cho các hộ theo dự án 327 là trái pháp luật.
+ Thứ ba: Trong hồ sơ vụ án các Văn bản của UBND xã; UBND huyện; UBND tỉnh GQKN cho các hộ (có 8 hộ) đều khẳng định, các hộ đòi đất dự án 327 là không có cơ sở.
Như vậy việc HĐXX nhận định 8 hộ có tên trong QĐ 8745 trùng trên đất của gia đình tôi được giao đất theo dự án 327 là không có căn cứ và mâu thuẫn với tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án mà nguyên đơn và bị đơn giao nộp. HĐXX không làm rõ việc đánh tráo khái niệm của UBND huyện Tĩnh Gia. Đó là việc tôi đòi trả đất chiếm đoạt không trả đánh tráo thành gia đình tôi không sử dụng, bởi việc bỏ đất không sử dụng và đất bị chiếm không được sử dụng là hoàn toàn khác nhau.
HĐXX nhận định: "Đối với "Sổ thuế nông nghiệp" mang tên Hoàng Huy (theo ông Vũ sổ này lập năm 1992) không phải là giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013, bản thân ông Lê Minh Vũ ngày 21/8/1994 đã có "Đơn xin nhận thầu đê" tại khu vực Hón Tre được Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt cho nhận thầu 5-6 sào (tương đương 2.355m2), năm 1994 ông Vũ đã nộp số tiền 400.000đ để thầu nuôi tôm là có thật nhưng chưa được nhận đất (BL58). Tại Quyết định GQKN số 01/QĐ TT TG ngày 26/9/1996 đã giải quyết "... Việc khiếu nại bồi thường công khai hoang là không đúng, Ủy ban nhân dân xã Tĩnh Hải phải thanh toán tiền chặt cây và tiền đấu thầu nuôi tôm cho gia đình ông Huy vì ông có nguyện vọng rút lại số tiền đó" (BL10). Như vậy từ năm 1995 ông Lê Văn Huy không yêu cầu đòi đất mà chỉ khiếu nại yêu cầu công khai hoang."
7. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX khẳng định" Sổ thuế nông nghiệp không phải là giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013", thể hiện HĐXX không đánh giá chứng cứ. Trước luật đất đai 1993, trong khoán 10 năm 1987 Sổ thuế nông nghiệp quy định về việc phản ánh đất quy chủ cho nông hộ là bằng chứng về việc nhà nước công nhận quyền sở hữu về đất cho hộ gia đình, cá nhân. Tổng cục thuế, Bộ tài chính phát hành sổ quy định:
"Sổ thuế nông nghiệp phản ánh toàn bộ diện tích ruộng đất quy chủ cho nông hộ quản lý sử dụng, căn cứ tính thuế và tính sổ thuế phải nộp theo pháp lệnh. Căn cứ ghi chép sổ gồm: Tờ khai diện tích đất trồng cây hàng năm (Mẫu 3A/TNN) và tờ khai diện tích đất trồng cây lâu năm (Mẫu 3B/TNN). Sổ giao khoán nhận thầu ruộng đất của HTX và xã. Giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất của nông hộ. Tài liệu về định sản lượng khoán, định hạng đất hoặc sản lượng (giá trị sản lượng) tính thuế của xã. Định Suất thuế đối với hạng đất, thuế suất (%) đối với từng loại cây trồng tính theo Pháp lệnh thuế nông nghiệp. Tài liệu tính phân bổ trên diện tích chung như đất giao thông thủy lợi nội đồng... Sổ thuế do chủ hộ quản lý. Sổ thuế được xác định số sổ của từng hộ ghi vào ô chữ nhật ở bìa sổ. Số của sổ đúng với số thứ tự của hộ trong sổ bộ thuế NN của xã để tiện việc theo dõi quản lý. Sổ thuế nông nghiệp của hộ do cán bộ thuế NN xã, phường ghi không ai được tự ý ghi chép hoặc tẩy xóa. Nếu chủ hộ thấy có sai sót thì báo cáo cho cán bộ thuế xã kiểm tra điều chỉnh. Sau khi điều chỉnh cán bộ thuế phải ký xác nhận và ghi rõ họ tên vào sổ. Nông hộ đến nộp thuế phải mang theo sổ...".
Theo quy định tại thời điểm cấp sổ thì, Sổ thuế nông nghiệp giao đất đến từng hộ gia đình cá nhân trong khoán 10 năm 1987 có giá trị pháp lý về quyền sở hữu cho chủ sử dụng đất, giá trị pháp lý cao hơn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai 1993 là vì: Sổ thuế nông nghiệp phản ánh đất quy chủ cho nông hộ quản lý, sử dụng. Như vậy Sổ nông nghiệp đủ điều kiện được phép thay thế: Tờ khai, Sổ giao khoán, Giấy chứng nhận sử dụng ruông đất, Tài liệu về định sản lượng, Định suất thuế thực hiện theo pháp lệnh. Trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện hành nhà nước đại diện chủ sở hữu, người dân chỉ được quyền sử dụng.
HĐXX cho rằng "Sổ thuế nông nghiệp" mang tên Hoàng Huy (theo ông Vũ sổ này lập năm 1992) không phải là giấy tờ về đất theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 là sai bởi sổ thuế nông nghiệp đủ điều kiện đại diện cho các loại giấy tờ về đất theo khoán 10 năm 1987 và là căn cứ xác định chủ sử dụng đất.
- HĐXX nhận định: ông Lê Minh Vũ được Chủ tịch UBND xã Tĩnh Hải duyệt cho nhận thầu 5-6 sào (tương đương 2.355m2), năm 1994 ông Vũ đã nộp số tiền 400.000đ để thầu nuôi tôm là có thật nhưng chưa được nhận đất (BL58). Rõ ràng HĐXX không hề đánh giá xem xét chứng cứ, phát quyết theo cảm thích là vì: Theo nguồn chứng cứ thanh tra huyện Tĩnh Gia xác minh tại quyết định 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996 kết luận: "Xã đã giao cho gia đình ông Huy (tức là ông Vũ) 2355m2 đất đấu thầu nhưng bị người khác chiếm". Nhưng thanh tra huyện lại yêu cầu UBND xã trả tiền, rõ ràng người khác chiếm đất của tôi chính là UBND xã, bởi chỉ có người chiếm đất mới phải trả tiền. Do vậy HĐXX khẳng định tôi chưa được giao đất là HĐXX không đánh giá chứng cứ.
- Ông Lê Văn Huy không đòi công khai hoang, mà là đòi đất. Để chứng minh cho việc thanh tra huyện Tĩnh Gia, xác minh sơ sài thiếu, trách nhiệm, sai đối tượng khiếu nại, không đúng nội dung đơn có căn cứ đó là: Hồ sơ ông Vũ thầu đất, đòi đất nhưng lại xác minh là ông Huy đòi đất. Kết luận đất của thầu của ông Huy bị người khác chiếm nhưng yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải trả tiền, công nhận xã chặt cây làm đường điện và đường giao thông, như quyết định chỉ nói rõ đến việc đền cây còn việc chiếm đất làm đường thì chỉ nói chung chung đó là "xã chặt cậy làm đường điện và đường giao thông nông thôn là có thật chưa bồi thường cho ông". UBND xã giao cho ông Vũ 6 sào là phù hợp với diện tích đất của ông Vũ mà xã chiếm giao cho ông Bụt (ông Bụt chuyển nhượng cho ông Nguyễn) theo xác minh của thanh tra thì UBND xã đã giao cho tôi 2355m2 đất là có căn cứ, nhưng bị UBND xã chiếm đoạt lại. Thanh tra không có biên bản nào làm việc với ông Huy nên việc khẳng định ông Huy đòi công khai hoang là không có cơ sở, theo đơn khiếu kiện gửi các thời kỳ thì gia đình tôi đòi đất khai hoang, không đòi bồi thường công khai hoang.
HĐXX nhận định: "Năm 2016 thực hiện Dự án xây dựng đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn, căn cứ Luật đất đai 2013, căn cứ hiện trạng sử dụng đất, UBND huyện Tĩnh Gia cũng không bồi thường về đất, mà tại Quyết định 8745 chỉ phê duyệt bồi thường tài sản và chính sách hỗ trợ đối với các hộ đang trực tiếp nuôi trồng thủy sản là có căn cứ và đúng đối tượng. Hội đồng xét xử sơ thẩm không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn Huy hủy Quyết định phê duyệt bồi thường của UBND huyện Tĩnh Gia."
8. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- Nhận định này của HĐXX đối chiếu với quyết định 8745 không bồi thường về đất là mâu thuẫn bởi BL153 có bồi thường về đất, điều này thể hiện UBND huyện Tĩnh Gia đã làm giả hồ sơ bồi thường chiếm đoạt tài sản. Là lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái quy định, do HĐXX không đánh giá chứng cứ, xét xử vắng mặt người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đó là nguyên nhân HĐXX không chấp nhận yêu cầu hủy quyết định 8745.
- Quyết định 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016
không bồi thường về đất cho 8 hộ, nhưng BL153 Bảng tổng hợp dự toán bồi thường
của UBND huyện Tĩnh Gia lại có bồi thường đất đai cho 8 hộ trùng đất gia đình
tôi là mâu thuẫn, đối lập. Là phạm tội: làm giả hồ sơ, tham ô tài sản, lợi dụng
chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng,
và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do HĐXX HC-ST không đánh giá chứng cứ,
chỉ căn cứ lời khai của UBND huyện Tĩnh Gia khẳng định: "UBND huyện Tĩnh
Gia cũng không bồi thường về đất, mà tại Quyết định 8745 chỉ phê duyệt bồi
thường tài sản và chính sách hỗ trợ đối với các hộ đang trực tiếp nuôi trồng
thủy sản là có căn cứ và đúng đối tượng" là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nguy hiểm hơn đó là dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm và xâm phạm hoạt động tư pháp.
HĐXX nhận định: "Về yêu
cầu UBND xã Tĩnh Hải bồi thường do hành vi thu hồi đất trái pháp luật từ năm
1993-1995 là không có cơ sở và đã hết thời hiệu khởi kiện; đối với yêu cầu UBND
xã Tĩnh Hải bồi thường tiền chặt cây của gia đình từ tháng 1/1995 và số tiền
400.000đ đã nộp để đấu thầu đất nuôi tôm từ năm 1994, ông Huy có quyền khởi
kiện trong vụ án dân sự khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự."
9. Kháng cáo chi tiết nhận định bản án:
- HĐXX khẳng định tôi yêu cầu UBND xã Tĩnh Hải bồi thường đất do hành vi
thu hồi là không đúng bởi vì: Đơn khiếu kiện tôi không đòi UBND xã bồi thường,
mà là đòi UBND xã trả lại đất chiếm đoạt. Tôi không khởi kiện vụ án hành chính
đối với hành vi thu hồi đất trái pháp luật nên HĐXX căn cứ thời hiệu Luật TTHC
quy định để bác yêu cầu đòi tài sản là đất quy chủ của gia đình tôi mà chủ tịch
UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt là không đúng. Việc gia đình tôi khiếu nại đòi đất
và cây trên đất bị UBND xã Tĩnh Hải chặt phá để chiếm đoạt đất làm đường điện,
đường giao thông nông thôn là việc đòi tài sản là bất động sản. HĐXX đình chỉ
một phần việc đòi tài sản là không khách quan bởi đất và tài sản trên đất đều
là bất động sản có chủ (đất quy chủ), mà chủ sở hữu là gia đình tôi nên tài sản
đó là bất khả xâm phạm và không ai có quyền chấm dứt quyền đòi tài sản khi
khiếu nại kéo dài chưa giải quyết. Đối với 400.000đ tôi nộp cho UBND xã Tĩnh
Hải và đã được UBND xã Tĩnh Hải giao đất là có căn cứ, do vậy việc trả lại tài
sản cho tôi là QSD đất thầu chứ không phải là 400.000đ như HĐXX khẳng định.
- Tài sản là bất động sản (đất quy chủ cho nông hộ và cây gắn liền trên
đất) của gia đình tôi bị UBND xã Tĩnh Hải chiếm đoạt, tôi yêu cầu Tòa án giải
quyết là căn cứ điều 34 và 35 Luật TTHC. Việc HĐXX đình chỉ một phần tài sản bị
chiếm đoạt là không đúng.
HĐXX Quyết
định: QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 32; điểm a khoản
2 Điều 116; điểm g khoản 1 Điều 143; khoản 1 Điều 158; điểm a khoản 2 Điều 193;
Điều 204; khoản 1 Điều 206 Luật tố tụng hành chính
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 74; khoản 1 Điều
75 Luật đất đai năm 2013.
1. Đình chỉ giải quyết một phần đơn khởi
kiện của ông Lê Văn Huy về yêu cầu hủy Quyết định số 01/QĐ-TTTG ngày 26/9/1996
của Thanh tra huyện Tĩnh Gia và yêu cầu tuyên bố hành vi thu hồi đất của UBND
xã Tĩnh Hải đối với gia đình ông từ năm 1993 đến năm 1995 là trái pháp luật.
2. Bác đơn khởi kiện của ông Lê Văn Huy
yêu cầu hủy Quyết định số 8745/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của Ủy ban nhân dân
huyện Tĩnh Gia về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng dự án: Đường Bắc Nam 2 - Khu kinh tế Nghi Sơn
10. Kháng cáo Quyết định bản án:
Theo nội dung kháng cáo chi tiết nêu
trên, HĐXX đã bỏ bớt: đơn khởi kiện ban đầu; đơn sửa đổi bổ sung; chứng cứ; không
xem xét đối tượng khởi kiện hành vi hành chính của UBND xã Tĩnh Hải được xác
lập tại biên bản ngày 10/5/2016; không đánh giá chứng cứ; Xét xử không được đối
chất làm rõ tại phiên tòa; xét xử không khách quan; thiên vị. Đó là lý do tôi
làm đơn kháng cáo tòa bộ bản án số 49/2017/HC-ST ngày 12/9/2017 của Tòa án Nhân
dân tỉnh Thanh Hóa, Kính mong Tòa án phúc thẩm, Tòa án Cấp cao tại Hà Nội xem
xét hủy bản án sơ thẩm số 49/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án Nhân dân tỉnh
Thanh Hóa để xét xử lại từ đầu. Thay mặt gia đình tôi xin trân trọng cảm ơn
NGƯỜI LÀM ĐƠN Đại diện theo ủy quyền
Lê Minh Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét